Điều Nghiên Về Các Hình Thái Cơ Bản Của Đạo Phật

25 Tháng Mười 201200:00(Xem: 21655)

ĐIỀU NGHIÊN
VỀ CÁC HÌNH THÁI CƠ BẢN CỦA ĐẠO PHẬT
Alexander Berzin
Cairo, Ai Cập, tháng Mười Một, 1995
Xuất bản lần đầu tiên như một đoạn của
Berzin, Alexander. Buddhism and Its Impact on Asia.
Asian Monographs, no. 8.
Cairo: Cairo University, Center of Asian Studies, June 1996


Chúng ta hãy xem xét một số nét khác biệt giữa các hình thái Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Tây Tạng, là đại diện của các hệ thống Phật giáo chính còn tồn tại đến ngày nay.

Phật Giáo Nguyên Thủy

Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh sự thực hành thiền chánh niệm. Điều này được thực hiện bằng cách tập trung tâm ý và hơi thở vào các cảm thọ trong thân thể khi đang ngồi, vào các động tác và ý định cử động khi đang đi hết sức chậm rãi. Với chánh niệm về sự sinh và diệt của từng khoảnh khắc, hành giả đạt được sự chứng nghiệm về sự vô thường. Khi áp dụng sự hiểu biết này vào việc phân tích tất cả các kinh nghiệm của mình, hành giả có thể nhận thức được rằng không có một bản ngã thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập với mọi người và mọi vật khác. Tất cả đều thay đổi theo từng khoảnh khắc. Bằng cách này, hành giả có được sự hiểu biết về thực tại, khiến họ tự thoát ra khỏi sự lo âu về bản thân và sự bất hạnh mà nó mang lại. Phật giáo Nguyên thủy cũng dạy các pháp thiền về lòng từ và lòng bi, nhưng chỉ trong những thập niên gần đây, Phật giáo Nguyên thủy mới có một phong trào gọi là “Đạo Phật Nhập Thế” (Engaged Buddhism), bắt đầu ở Thái Lan, để các Phật tử tham gia vào các chương trình trợ giúp xã hội và môi trường. Hơn nữa, các nhà sư Phật giáo Nguyên thủy còn tu học, trì tụng kinh điển và thực hiện các nghi lễ cho công chúng tại gia. Hàng ngày, các nhà sư đi khất thực một vòng trong im lặng, và các gia chủ thực hành tâm bố thí bằng cách cúng dường thức ăn cho các vị này.

Đại Thừa Đông Á

Các truyền thống Đại thừa Đông Á xuất xứ từ Trung Quốc có hai hình thức chính: Tịnh Độ (Pure Land) và một hình thức khác được biết đến như Zen ở Nhật Bản. Truyền thống Tịnh Độ chú trọng việc tụng niệm hồng danh của Đức Phật A Di Đà (Amitabha), tức Vô Lượng Quang Phật (Buddha of Infinite Light), như là phương pháp để đi đến cõi Cực Lạc Tịnh Độ của ngài, một loại thiên đường ở đó mọi việc đều thuận lợi cho việc tu tập để trở thành Phật. Còn Zen nhấn mạnh việc hành thiền nghiêm ngặt, nhờ đó tâm hành giả trở nên vắng lặng, không còn tạp niệm, thì bản chất thanh tịnh của tâm như từ bi và trí tuệ sẵn có mới chiếu sáng được. Chư tăng ni trong cả hai truyền thống đều tụng các kinh điển, và để phù hợp với nền văn hóa Nho Giáo, các vị còn thực hiện các nghi lễ, đặc biệt là cho liệt vị tổ tiên đã qua đời trong cộng đồng cư sĩ.

Đại Thừa Tây Tạng

Hình thái Phật giáo Đại thừa ở Tây Tạng, hiện diện ở khắp Trung Á, nhấn mạnh đến sự tu học – đặc biệt về bản chất của tâm và các cảm thọ, qua trung gian của luận lý học và tranh luận – cùng với việc hành thiền cao độ. Sự tu tập này được kết hợp với hành trì mật điển, trong đó, hành giả sử dụng năng lực của sự tưởng tượng và làm việc với những năng lượng vi tế của cơ thể để chuyển hóa thân mình thành một vị Phật. Điều này được thực hiện bằng cách chú tâm vào tánh Không và lòng bi mẫn, và trong bối cảnh đó, hành giả tưởng tượng mình đã trở thành sắc thân của một vị Phật cụ thể nào đó. Mặc dù những sắc thân Phật như vậy đôi khi được gọi là "các bổn tôn", tuy nhiên, các vị bổn tôn này không tương đương với Thượng Đế về mặt ý nghĩa hay chức năng, và đạo Phật hoàn toàn không phải là một tôn giáo đa thần. Mỗi sắc thân Phật là một biểu tượng thể hiện cho một phương diện giác ngộ của một vị Phật, như là trí tuệ hay tâm từ bi. Việc quán tưởng mình trong thân của một vị Phật như vậy, kết hợp cùng với việc tụng niệm những âm tiết thiêng liêng (chú), giúp cho hành giả vượt qua ý niệm về bản ngã tiêu cực và si mê của mình, và phát triển các phẩm chất mà vị Phật đó biểu hiện. Cách hành trì như vậy rất cao cấp và cần sự giám sát chặt chẽ của một vị thầy hội đủ các phẩm chất cao quý.

Phật giáo Tây Tạng cũng có nhiều nghi lễ và tụng niệm, thường để loại trừ những năng lực tiêu cực và sự quấy nhiễu, được hình dung dưới dạng ma quỷ. Trong khi thực hành những nghi lễ như vậy, hành giả tưởng tượng mình trong một sắc thân cực kỳ mạnh mẽ và phẫn nộ như một sự trợ giúp của pháp thiền quán, để có thêm năng lượng và lòng tự tin, hầu vượt qua những khó khăn. Các pháp thiền quán để trưởng dưỡng lòng từ ái và bi mẫn cũng rất quan trọng, và cũng liên quan đến việc sử dụng sự quán tưởng.

(Viện Lưu Trữ Phật Pháp Berzin)

Tiểu Sử Ngắn Alexander Berzin


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Giêng 2015(Xem: 7699)
Sự giải thoát của kinh Hoa Nghiêm không phải là phá hủy sự tướng, dù chỉ bằng cách quán tưởng; cũng không phải là đưa sự tướng trở về bản tánh tánh Không của chúng. Sự giải thoát, giác ngộ của kinh Hoa Nghiêm là thấy được sự viên dung vô ngại của tất cả sự tướng.
15 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 13030)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
15 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 13140)
Câu chuyện thứ nhất xin kể về ông Gandhi. Ông là một vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Ông được dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là “Linh hồn lớn”, “Vĩ nhân”, “Đại nhân” hoặc là “Thánh Gandhi”.
24 Tháng Mười Một 2014(Xem: 8931)
Bất cứ thời nào và ở đâu, con người cũng có những nỗi khổ niềm đau, những thói hư tật xấu, tham lam, tranh chấp. Dựa vào các nguyên tắc đạo đức, con người dần điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với đạo lý xã hội. Giới luật trong Phật giáo (Vinàya) có nghĩa là điều phục, huấn luyện, đã huấn luyện thì phải có kỷ luật. Điều phục ở đây nghĩa là điều phục thân tâm
11 Tháng Mười Một 2014(Xem: 7624)
Cách đây mấy tháng, tôi đến tham dự một khóa tu hai tuần ở một tu viện trong một vùng gần bờ biển. Tu viện này được nhiều người kính trọng vì cuộc sống hòa hợp và khắc khổ của các nhà sư ở trong đó. Mỗi ngày một nhóm thí chủ khác nhau đến tu viện, thường là từ những thị trấn hay làng mạc xa xôi, mang theo vật phẩm cúng dường.
05 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11604)
Quan niệm Phật như vị thần linh chỉ coi việc ban phước, giáng họa. Vì vậy, người ta không ngại gặp Phật thì cúng, gặp thần thì lạy, gặp ma quỉ thì cầu xin. Bởi trên cương vị ban phước giáng họa, họ không phân biệt đâu trọng đâu khinh, miễn vị nào đem lại được những điều cầu nguyện của họ là linh thiêng, bằng không thì hết linh ứng.
31 Tháng Mười 2014(Xem: 5477)
Đôi lời bộc bạch chân thành, chúng tôi viết quyển sách này cho những ai muốn trở thành người Phật tử chân chính. Bước đầu học Phật rất quan trọng, nếu đi sai lệch sẽ làm trở ngại trên bước đường tu học. Người mới bắt đầu học Phật không hiểu đúng tinh thần Phật giáo sẽ khó được thành tựu viên mãn.
23 Tháng Mười 2014(Xem: 11017)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọ và nhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của sự đau khổ do bản thân mình gây ra hay tác động bởi hoàn cảnh xã hội, nhưng khổ đau có nguồn gốc từ sự tưởng tượng của con người.
22 Tháng Mười 2014(Xem: 14742)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại.
29 Tháng Chín 2014(Xem: 6549)
Trải qua gần 100 năm tuổi (phôi thai bắt đầu từ khoảng năm 1916- 1918), bộ môn Cải Lương của miền Nam Việt Nam ngày nay đã thật sự "đi vào lòng người", vừa là kịch, vừa là hát, nhẹ nhàng lên bổng xuống trầm với những nhạc cụ dân tộc, tạo thành một nghệ thuật đặc thù của miền Nam Việt Nam. Cộng vào đó, những nghệ sĩ tài hoa, điêu luyện, hòa cùng kỹ thuật âm thanh tân tiến ngày nay, đã đưa bộ môn nghệ thuật Cải Lương tới chỗ tòan hảo, truyền cảm và rất tự nhiên.