Chương I: Đức Phật Của Chúng Ta

06 Tháng Năm 201200:00(Xem: 16034)

DU HÓA TẬP 2
Huệ Giáo
PL. 2555 - DL. 2011

CHƯƠNG I
ĐỨC PHẬT CỦA CHÚNG TA

ĐỨC PHẬT - HIỆN THÂN MỘT CON NGƯỜI

 

Ngược thời gian, dọc theo lưu vực sông Hằng hướng về cội nguồn phía Đông Bắc Ấn Độ hơn 2500 năm về trước, con sông lượn quanh nối dài bao bọc mảnh đất thưa dân nhiều đạo sĩ được ca tụng như một vùng đất Thánh. Địa danh này mãi truyền cho đến ngày hôm nay, từ đó chúng ta có thể hiểu rằng, không phải chỉ nước trong bình lặng, phì nhiêu là nơi hội tụ những ngọn nguồn con lạch, khí trời, tạo thành một bức tranh sơn thuỷ trầm mặc, mà chính là cái hồn của tất cả niềm tin đã thổi vào chúng, thể hiện một sức mạnh huyền ảo ẩn hiện khó diễn đạt được trong ký ức của con người. Con sông lớn vững hiện qua thời gian được loài người tôn vinh là một điều không thể phủ nhận. Cái hồn ấy, không gì khác chính là đức tin mãnh liệt của con người đã đặt trọn vẹn cuộc đời vào niềm tin sâu sắc các đấng được họ tôn thờ. Có bao nhiêu niềm tin là có muôn trùng thánh thần hiện hữu, tựa như mỗi con người ai cũng có một vị thánh bảo hộ, và từ đó sự hình thành một ý thức hệ các tôn giáo ra đời, như trăm hoa cùng nhau khoe sắc tỏa hương để tô điểm bầu trời rộng lớn mênh mông, cho đến nỗi ý thức con người khó có thể phân biệt được đâu là thật và đâu là giả trong ẩn hiện tôn thờ đây là điều hiển nhiên trong quy luật phát triển ý thức.

Thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) vươn lên đầy sức sống trong thanh bình, thịnh vượng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của dòng tộc Thích ca (Sakya), đứng đầu trị vị vương quốc này là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Maya, dân chúng nơi đây được ấm no, có đời sống tinh thần mãnh liệt trong tình thương yêu hòa ái, họ được bảo bọc và che chở bởi đức độ và sáng suốt lãnh đạo của vương triều. Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) sinh ra trong hoàng thành là kết quả của niềm khao khát vô bờ hằng mong đợi của hoàng tộc, và chính là niềm hy vọng, ước mơ giữa những con người hiền lương, thánh thiện, là điểm hội tụ của vị vua anh minh và hoàng hậu giàu lòng nhân từ. Thái Tử Tất Đạt Đa ra đời vào tháng Vesakha của Ấn Độ năm 624 trước tây lịch như làn gió trong lành tuôn ra từ những khe nguồn núi cao thổi về biển rộng nhẹ nhàng hoà quyện với tiết trời phố thị, tạo một bầu không khí luôn thanh thản tươi mát, không chỉ như thế, đó cũng là đánh dấu ngày một vĩ nhân xuất hiện giữa cuộc đời, hiện thân một con người.

Từ khi sinh ra và lớn lên cho đến lúc trưởng thành, Thái tử Tất Đạt Đa tiếp nhận khí trời, cùng với dòng sữa yêu thương của Cha mẹ, ăn uống, ngủ nghỉ sinh hoạt đời thường như bao nhiêu con người khác. Có khác chăng, Ngài sanh ra trong hoàng cung, là một thái tử thông minh có được nhiều thuận lợi hoc hỏi, tiếp thu kiến thức thông qua những bâc thầy uyên bác; Khác chăng Ngài có nhiều cơ hội để khai triển năng lực siêu phàm sẵn có. Công chúa Da Du Đà La (Yasodhàra) cũng là một nữ nhi hoa sắc hoàn hảo. Sự gặp nhau giữa đôi trai tài gái sắc tạo nên sự hội tụ linh động hình ảnh những con người thật giữa chốn trần gian.

Mặc dầu là một người được bảo bọc bởi quyền lực vương quyền, có trí tuệ và sức mạnh siêu phàm, sống trong nhung lụa hào hoa, trong tình thương yêu kính trọng của thần dân, tuy nhiên tâm trí Thái tử luôn bị thôi thúc bởi một nguồn tác động sâu xa thầm kín, đó là hình ảnh và tiếng nói sâu thẳm của một kiếp người. Ngày đêm tâm tư của Ngài luôn bị thôi thúc từ tiếng vọng sâu xa, mặc dầu đang ở trong chốn hoàng thành bao phủ xa hoa, và những màn trình diễn của các nhạc vũ công tài tình, hoa lệ danh sắc được tuyển lựa kĩ lưỡng suốt đêm thâu, sau những buổi dạ tiệc linh đình, và đằng sau sự chúc tụng, tôn kính của thần dân để phục vụ cho nếp sống vương giả. Tuy nhiên tâm trí của Ngài trước những cảnh tượng như thế vẫn luôn bị chấn động, tựa như một cơn dư chấn vừa xảy ra vẫn còn đang âm ỉ trong mảnh đất tâm ngổn ngang, nóng bỏng.

Rồi một đêm trong mùa trăng sáng, khi bóng trăng nghiêng mình trên cành lá, lặng lẽ một mình trong đêm đen, Thái tử đã quyết định ra đi, để lại sau lưng tất cả những phồn hoa cuộc sống, nào vợ đẹp con thơ, nào những trói buộc bằng nhiều hình thức khác nhau quấn lấy thân phận con người dục tình tựa như những chất liệu vàng ngọc giả tạo, khiến một kiếp người trôi lăn khó có ngày thoát khỏi những khổ luỵ, trần ai. Ngài đã quyết chí tìm ra đâu là chân lý của cuộc đời, đâu là sự hiệu hữu đời sống thật và đâu là cội nguồn của hạnh phúc và đau khổ trong thế giới tương quan luôn biến động.

Sau sáu năm khổ hạnh từ khi quyết định xuất gia tầm đạo trong đêm, trở thành một tu sĩ không nhà giữa rừng cao núi thẳm, với chừng thời gian ấy, Thái tử lần lượt tham học các bậc Thầy nổi tiếng và có kinh nghiệm tu tập thiền định cao vời đang ẩn mình trong lâm viên đại ngàn. Bên cạnh sự thể chứng tự thân, Thái tử lần lượt vượt lên và đi vào những trạng thái tâm linh sâu xa khác nhau, làm chủ mọi trạng thái tâm thức và thể xác, chiến thắng nội ngoại ma luôn bao phủ lấy Ngài. Đạo sĩ Tất Đạt Đa đã trở thành một con người Giác Ngộ trong chốn trần gian sau 49 ngày đêm hạ tâm kiên định, nguyện rằng thà xương tan thịt nát, bỏ mạng giữa chốn rừng cô liêu hoang dã, chứ không rời khỏi chỗ ngồi nếu không đắc đạo, chứng quả Bồ đề sau khi nhận bát sữa ngọt ngào do một thôn nữ hiền thục dâng cúng đã trợ sức cho thân thể của Ngài sau nhiều ngày tu hành khổ hạnh ép xác, con đường cực đoan không thể đưa đến giải thoát.

Đức Phật - hiện thân như một con người. Là một người Giác ngộ hội tụ đầy đủ những khả tính vô biên trong các loài giữa chốn thánh phàm, tuy thế đời sống của Ngài từ ngôn từ cho đến cử chỉ không có gì khác thường, vẫn ngủ nghỉ, làm việc, ăn mặc, sống và không biểu hiện tướng trạng cách ly thế gian. Có khác chăng và vượt lên tất cả, đó là tâm và hành nguyện của Ngài được hành xử bởi tâm giác ngộ, nguồn lực yêu thương đồng loại và những kinh nghiệm vượt khổ, để kiến tạo hạnh phúc ngay trong cuộc sống này. Chính trái tim đó đã nói lên một con người toàn diện, cao thượng, vĩ đại giữa chốn người vì lợi lạc cho tất cả chúng sanh chứ không chỉ riêng mình. Lịch sử ghi chép lại, và chúng ta được biết rằng Đức Phật không bao giờ để một giây phút nào xao lãng và xa lánh loài người dù ngày hay đêm và hơn thế nữa, Ngài đã hoà hợp vào chúng sanh để hướng họ đến nơi toàn giác, điều này lại một lần nữa minh chứng rằng: Đức Phật là một con người nhưng vượt trên tất cả loài người - Một con người giác ngộ.

Tình thương yêu và sự hiểu biết rộng lớn được trải dài suốt cuộc đời và trong sự nghiệp của Ngài, cho đến hôm nay đã trải qua nhiều thế kỷ trái tim của đức Phật không bao giờ khép kín mà luôn luôn rộng mở. Lúc còn tại thế, nơi nào có dấu chân của Ngài đến nơi đó sự an bình hiện hữu và những gì đổ nát được tái tạo, mặc dầu trong những thời điểm hoàn cảnh khắc nghiệt nhất và giữa chốn hận thù. Hôm nay, lời dạy của Ngài được truyền giảng đến đâu thì nơi đó được hấp thụ chỉ có một hương vị đó là lấy tình thương để xoá bỏ hận thù, chất liệu yêu thương là nền tảng căn bản để hàn gắn tất cả những cái gì đã vỡ. Tình yêu thương nhân loại xuất phát từ tâm đại giác ngộ của Ngài chính là sợi dây vững chắc, là những kênh thông tin hữu hiệu để kết nối mọi người từ các nơi, các trạng thái, địa vị và giai tầng trong xã hội hiểu nhau, chia xẻ, yêu thương và đồng cảm hơn nữa. Cũng thế, đạo Phật đến nơi đâu, con người nơi đó có khả năng tiếp cận và vận dụng lời dạy của Ngài vào đời sống, sinh hoạt thực tế thì nơi ấy hoàn cảnh sẽ được thiết lập một mối tương quan bình đẳng, thân thiện, dù trong hoàn cảnh đó có nhiều xung khắc và mâu thuẫn, bởi lẽ tinh thần của đạo Phật trước sau như một chỉ có một mục tiêu quy hướng xây dựng thiện mỹ chứ không mang tâm lý an bài, tiêu cực, hứa hẹn cao xa.

Hôm nay, Phật tử kỷ niệm lần thứ 2552 năm đản sanh của Ngài, nghĩa là chúng ta tạo ra nhiều cơ hội để cùng nhau ôn lại những hạnh nguyện cao cả, xung quanh trong vô lượng tâm nguyện tỏa ngát đã hiến dâng cho nhân loại trong cuộc đời đức Phật. Người con Phật hôm nay, đang sống trong kỷ nguyên của tâm linh, ngày đản sinh của Ngài chúng ta cần nên triển khai nhiều sinh hoạt văn hóa hướng về nội dung tinh thần sâu sắc. Ngoài vô vàn hương hoa dâng tặng, cùng muôn ngàn tâm nguyện trong sạch hiến cúng đức Phật, chúng ta cần phải có những hành động thực tiễn, nỗ lực hơn nữa mang ánh sáng giác ngộ đến với mọi người qua từng việc làm cụ thể, dù lớn, dù nhỏ để cùng góp tay làm tươi đẹp cuộc sống, mở rộng trái tim của chúng ta giữa cuộc đời. Không phải xuất phát từ nhận định cảm tính, hời hợt, đơn thuần mà từ suy nghiệm sâu sắc được rút ra trong quy luật xã hội, các nhà khoa học đã đưa ra một nhận xét mang tầm vóc tối hậu tác động lớn vào sự vận động toàn cầu xây dựng ngôi nhà chung, đó là thế giới hiện nay cần có sự quan tâm của các nhà tôn giáo, lãnh đạo tinh thần và tâm linh học để góp sức cân bằng sự sống bên cạnh sự bùng nổ dữ dội giữa kỹ thuật khoa học, và môi trường sinh sống và nhu cầu đạo đức không thể thiếu được trong môi trường hiện nay. Vì họ đã hiểu được rằng, một người không có nền giáo dục đạo đức tôn giáo, không có văn hóa ứng xử theo lễ nghi tôn giáo trong sự giao thoa phát triển thì người ấy dễ phá rối nền an ninh trật tự của xã hội này.

Từ đó, chúng ta nhận thức rằng, chỉ đến khi nào trong cách tiếp cận ứng xử, giữa con người với nhau trong nhiều môi trường, lĩnh vực khác nhau, mà tâm thức và hành động của mỗi người biết tự chế và kiểm soát các trạng thái tâm lý có chứa đựng nhiều độc tố hận thù, ganh tị, chà đạp, bỏn xẻn, tham lam, ích kỷ và thiếu vị tha thì lúc ấy chúng ta mới hy vọng có được một thế giới đi trong trật tự an lành và thịnh vượng. Như trong luận A Tỳ Đàm đã nói, vũ trụ này có tồn tại lâu dài hay sẽ nổ tung trong nay mai điều tùy thuộc vào ý thức và hành động của con người biểu hiện qua mấy việc: Con người còn biết kính trọng Cha Mẹ và Thầy Tổ; Có hòa thuận với anh chị em; Có tu tập Bát quan trai giới, ý thức làm lành lánh dữ hay không? Chứ không phải được bảo quản bởi một vị lãnh tụ tài ba nào.

Như vậy, thiết nghĩ không có sự cúng dường cao cả nào bằng trái tim yên tịnh để chúng ta hành động và sống giữa cuộc đời. Nhân kỷ niệm ngày đản sinh của đấng Giác ngộ, người sáng lập nên nền đạo lý giải thoát, một tôn giáo thực nghiệm tâm linh chúng ta lần nữa xác định rằng, đức Phật là một con người lịch sử, hiện hữu sinh động trong nhiều kiếp sống và trong nhiều cảnh giới. Ngài hiện thân như một con người giữa cuộc đời, chính trái tim của Ngài đã nâng tầm vóc và nhân cách của Ngài vượt lên trong thế giới loài người, mặc dầu xung quanh cuộc đời của bậc vĩ nhân luôn ẩn chứa ấn tích huyền thoại, chúng ta cần chiêm nghiệm và học hỏi nghiêm túc.

 


ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH DƯỚI CÁI NHÌN TỪ KHÍA CẠNH TÔN GIÁO

 

Từ góc độ một con người lịch sử, chúng ta biết rằng Thái tử Tất Đạt Đa sinh ra tại Ấn Độ giữa trần thế và trong lịch sử vĩ nhân của loài người. Trong cộng đồng tôn giáo của nhân loại, Thái tử Tất Đạt Đa là một vị Bồ tát hiện thân ở cõi Ta - bà theo hạnh nguyện và lý tưởng dấn thân cứu độ chúng sanh nhiều đời trôi lăn trong bến khổ bờ mê bởi sự mê lầm và trầm luân trong nghiệp lực theo lý tưởng Bồ tát đạo. Ở đây chúng ta tìm hiểu đức Phật trong quan điểm là giáo chủ của một tôn giáo.

Học thuyết về tôn giáo học, cho chúng ta biết tôn giáo luôn hàm chứa ba chức năng nhất định để hình thành một tôn giáo hoàn chỉnh là: Huyền thoại, Triết Học và Nghi Lễ. Vậy thì, khi chúng ta nói đến sự ra đời của Đức Phật từ khía cạnh tôn giáo đồng nghĩa là nói đến một con người cùng với những tính chất huyền thoại kèm theo.

Không riêng gì đức Phật, hầu hết những vị giáo chủ của các tôn giáo lớn, chúng ta thấy ngoài con người thật, các vị đều có những huyền thoại bao quanh sự xuất hiện của họ, đó là những vị Thánh. Với loài người, trong lịch sử cũng có rất nhiều người được tôn vinh là con người huyền thoại, những bậc vĩ nhân, những vị anh hùng... những biểu lộ được tôn vinh như thế đó chính là những hành động, năng lực không thường tình của họ đã vượt qua khả năng của con người trong nhận thức hữu thực và phi thực.

Trong tư tưởng Đại thừa Phật giáo, truyền thuyết cho chúng ta biết rằng, Thái tử Tất Đạt Đa ra đời bên hông của người Mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Khi vừa sanh ra dưới cây Vô ưu, Ngài liền đi bảy bước, mỗi bước chân đi của Ngài có bảy đóa sen nâng đỡ, ba ngàn thế giới chấn động. Sự hiểu biết vô song của Thái tử khi lớn lên cũng là một huyền thoại, chỉ trong thời gian ngắn Thái tử đã thông làu tất cả thánh điển cổ xưa và đang hiện hữu. Nghị lực siêu phàm cũng là một huyền thoại. Sự xả bỏ cuộc đời tạm bợ tìm ra con đường giác ngộ khổ đau cho chúng sanh là một hành động của con người vĩ đại, một vị thánh.

Do vậy, khi nói đến những huyền thoại trong truyền thuyết về sự ra đời của đức Phật, là Phật tử thì chắc chắn tuệ lý và tín lý của chúng ta rất dễ dàng tiếp nhận những hình ảnh này. Tuy nhiên, đối với những người chưa phải là con Phật thì chắc chắn đây là những thắc mắc, và nhiều câu hỏi bỡ ngỡ cho một số người, sự hoài nghi của rất nhiều người. Tựu trung, đức Phật có phải là con người thật hay không?

Như chúng ta đã biết, càng ngày khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, đời sống con người có nhiều tiện ích, tuy nhiên không những hôm nay mà đã từ lâu, có rất nhiều sự thật, mà khoa học vẫn không thể chứng minh được, như thế mới gọi là vượt qua sự hiểu biết của con người. Sự thật về con người của đức Phật đã được các nhà khoa học, khảo cổ học từng chứng minh cho nhân loại biết rằng đức Phật là con người có thật, và là con người của lịch sử, chứ không phải là một con người huyền thoại thường có trong các tôn giáo được tô vẽ thần bí.

Tuy nhiên, đã là một vĩ nhân thì chắc chắn không thể không có những huyền bí, huyền thoại, nói theo nghĩa những huyền thoại đó chính là năng lực của chính họ mà con người khó có thể suy đoán. Hơn nữa, đã từ lâu, Thái tử Tất Đạt Đa chính là một vị Bồ tát, người đã tu hành nhiều kiếp, thành tựu được con đường giác ngộ, sự hiện hữu hôm nay chính là bản nguyện thị hiện. Con đường giác ngộ là con đường thực tiễn, người giác ngộ là đại nhơn, đại trượng phu, mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện được. Người giác ngộ có năng lực bản nguyện thị hiện, thì năng lực đó cũng có thể hóa hiện bất cứ tướng trạng nào, hình thức nào, mà không bao giờ bị chướng ngại. Đặc biệt, một con người có thể làm chủ được thân tứ đại, hay nói rõ hơn làm chủ được sự sống chết, thì sự sinh và tử con đường đi ra vào của họ cũng rất tự tại.

Hơn thế nữa, đã là một vị Bồ tát, người đã thực hiện thành tựu con đường giác ngộ tuệ giác thì tướng trạng và hành tung của họ đều thể hiện sự vô chướng ngại. Hình ảnh đi bảy bước trên hoa sen và một tay chỉ trên trời, một tay chỉ dưới đất, nói rằng: Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn… chính là hình ảnh của con người đã vượt ra nhơn, ngã, chúng sanh, thọ giả tướng đó cũng chỉ là những hình ảnh biểu lộ năng lực của mình, được hiểu như là những huyền thoại. Không riêng gì đức Phật, hay Thái tử Tất Đạt Đa mới có khả năng biểu lộ những hình ảnh này, mà tất cả những vị Thánh, La hán, Bồ tát vẫn có thể hiển lộ những hành động khác thường siêu phàm đó.

Do vậy, những hành động được các Ngài hiện tướng, tưởng chừng như là những huyền thoại không thật đó, suy ngẫm kỹ chúng ta sẽ thấy rằng, sự biểu hiện đó rất thực tế và cụ thể ngay trước mắt không như chúng ta nghĩ thật là siêu phàm và quá cao siêu, người thường khó có thể hiển lộ được. Tưởng niệm và tri ân ngày Đản sinh của Đức Phật, thiết nghĩ chúng ta ôn lại những hình ảnh xung quanh về cuộc đời của Ngài cũng là một cách để tôn vinh giá trị hằng hữu đã vượt qua thời gian gần 3000 năm, sự ra đời của đức Phật quá khứ đã đi qua và ngay hiện tại cũng như trong tương lai vẫn tiếp tục cống hiến cho nhân loại nhiều bài học quý giá để đóng góp và hoàn thiện trong kiếp nhân sinh.

 

New York, 28 tháng 04 năm 2009

 


VESAK - TRĂNG RẰM THÁNG TƯ

 

Vesak Liên Hiệp Quốc hay ngày Phật Đản Liên Hiệp Quốc (The UNITED NATIONS DAY OF VESAK) hay còn gọi là Lễ Tam Hợp nghĩa là Ngày Đản sinh - Thành Đạo và Niết Bàn của đức Phật. Vesak - Ngày nay, được sử dụng chung một từ trong ngôn ngữ thế giới để đánh dấu ngày đản sinh của Đức Phật. Hôm nay, nói đến Vesak loài người sẽ hiểu ngay đó là ngày sinh một vĩ nhân của nhân loại, vị sáng lập ra đạo Phật, một tôn giáo thức tỉnh trong lịch sử tôn giáo thế giới. Liên Hiệp Quốc tôn vinh và công nhận ngày sinh của đức Phật vào ngày 15 tháng 12 năm 1999, tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 54 là một Lễ hội Văn hóa và tôn giáo thế giới đồng nghĩa khẳng định giá trị bền vững mà đạo Phật đã cống hiến cho loài người qua nhiều mặt: “Công nhận ngày trăng tròn vào tháng 5 mỗi năm là ngày thiêng liêng nhất của Phật tử và sẽ được Phật tử cử hành Đại Lễ để kỷ niệm ngày Đản Sinh, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn của đức Phật. Xét rằng, việc quốc tế công nhận ngày Đại Lễ cử hành tại trụ sở Trung ương Liên Hiệp Quốc và các văn phòng Liên Hiệp Quốc khác là một cách bày tỏ lòng biết ơn về sự đóng góp của Phật giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, trong hai thiên niên kỷ rưỡi vừa qua và vẫn tiếp tục đóng góp về phương diện tâm linh cho nhân loại” (Nghị quyết số 54/115 của LHQ).

Thật vậy, cách đây 2632 năm sự ra đời của Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) tựa như một đóa hoa vô ưu tròn đầy tỏa ngát hương thơm trong một vườn hoa rộng lớn. Một đóa hoa mùi hương của chúng vượt trội giữa các loài hoa bởi sự tinh khiết bất tận, một điểm hội tụ bao sắc màu lung linh trong trần thế. Một con người sinh ra giữa chốn nhân gian lại vượt trên loài người cả phẩm chất thoát tục, đạo đức siêu phàm và trí tuệ tối thượng bạt ngàn. Sự ra đời của Thái Tử Tất Đạt Đa không nằm trong một thể cách phàm tình tựa như con người ra đời bởi dục tính của nghiệp thức và mang một khối phước nghiệp nhiều đời. Sự ra đời của Ngài chính là một hạnh nguyện dấn thân của một bậc Thánh triết, và một trái tim mang khối tình thương bao la rộng lớn đến để cứu độ chúng sanh, đó là một sự Giáng sinh - Thị hiện. Trong Kinh A Hàm có câu: “Một chúng sanh duy nhất, một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư thiên và loài người”. Chỉ bấy nhiêu đó, lịch sử loài người đã ghi dấu một con người khác tục, một bậc siêu phàm như trong kinh Pháp Hoa nói rằng đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên: “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”.

Theo lịch sử, sự xuất hiện của Thái Tử Tất Đạt Đa là sự báo trước của một sự hòa quyện khát khao trong tâm trí giữa hai con người đầy hiền lương và nhiều phẩm chất cao thượng đó là Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia vương triều dòng họ Thích Ca (Sakya) tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) vào năm 624 - BC trong vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini).

Vesak - Trăng tròn tháng tư ẩn hiện giữa cõi đời ô trược không còn phụ thuộc vào thời gian và không gian, vì thời gian và không gian đều có giới hạn cùng với tâm thức, mà tâm thức thì luôn luôn đổ nát, không thật, nhứt là trong tâm thức vọng khởi. Khi con người còn nhận ra những giá trị ưu việt, Chân-Thiện-Mỹ và khát khao tìm kiếm những hành vi mang lại niềm vui và lợi lạc cho mình và người để đóng góp trong sự truy tìm hạnh phúc thì ngày sinh của đức Phật là bất tận. Như đức Phật đã từng khẳng định, lời nói của ta trước sau như một luôn thiện xảo chân thật: “Sơ thiện, trung thiện và hậu thiện”.

Ngày nay, những người con Phật và cả loài người bằng nhiều cách khác nhau để cúng dường và hòa vui trong niềm vui Khánh Đản đó là dấu hiệu đáng mừng. Sự mừng vui này không phải bằng sự ca tụng và xiển dương cho một tôn giáo là Phật giáo mà chính là ca ngợi cái đẹp và sự thánh thiện, cần phải có trong cuộc đời. Một thế giới văn minh, một con người có hiểu biết chính là những tâm hồn nhạy cảm biết trân quý điều thiện và trau dồi hạnh lành, tôn quý nguồn gốc tâm linh làm nền tảng cho mọi điều hạnh phúc. Do vậy, sự quay lưng hay thờ ơ hoặc có những dấu hiệu tâm lý tiêu cực của một cá nhân nào đó chính là tự mình tiêu hủy lấy mình và tự mình tạo khoảng cách giữa mình và thế giới đang sống với chính mình, và sự tham cầu hạnh phúc của con người không thể xảy ra. Hạnh phúc chân thật không thể tìm kiếm và xây dựng khi con người đánh mất những giá trị tâm linh. Hạnh phúc nếu được hiểu như là những điều tốt đẹp trong cuộc sống thì sự ra đời của đức Phật là một thông điệp hạnh phúc bất tận, vì không có sự hạnh phúc nào lớn hơn bằng sự thoát khỏi những đau khổ, sanh tử là một sự đau khổ lớn nhứt của con người:

“Thiên thượng Thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhứt thiết thế gian

Sanh lão bệnh tử.”

Dịch là:

Trên trời dưới trời

Chỉ có ta là trên hết

Tất cả trong thế gian

Đều sanh lão bệnh tử.

Hôm nay, chúng ta kỷ niệm ngày sinh của Ngài không chỉ đơn thuần là sự ca ngợi về một con người mà chính là ca ngợi một biểu tượng hạnh phúc thật sự của thế gian, và như thế không ai là không mưu cầu hạnh phúc, và tôn vinh sự thật.

 

 

 

 

 


CẢM NIỆM PHẬT ĐẢN

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh vào năm 624 BC, tại vương thành Ca tỳ la vệ, biên giới Ấn độ - Nepal hôm nay. Ngày đản sanh của Ngài đã tỏa ra một niềm vui lớn cho thần dân và hoàng tộc của xứ sở, đánh dấu sự trường tồn và tiếp nối của một quốc gia thịnh vượng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, hiền lương của vua Tịnh Phạn và mẫu hậu Ma Gia.

Niềm vui lớn này, không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia mà lan tỏa khắp thế giới loài người cả những thế giới loài hữu tình khác mà ngày hôm nay, đúng như tâm nguyện của Ngài. Đó là tâm nguyện của một vị Bồ tát hiện thân hiệu Hộ Minh ở tại cung trời Đâu Suất giáng trần vào cõi Ta bà để hóa độ chúng sanh. Sự hiện hữu và hạnh nguyện của Ngài được minh chứng hùng hồn qua ngôn từ chứa chan tình yêu bất tuyệt: “Ta ra đời vì an lạc, vì hạnh phúc cho số đông, cho Chư thiên và loài người”.

Thật vậy, ngày xuất hiện của đức Phật đã được tiếng nói của loài người, một lần nữa cách thời gian Ngài đản sanh hơn 2500 năm, khẳng định qua nghị quyết của đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 12 năm 1999, đồng quyết định ghi nhận đây là một Lễ hội văn hóa tôn giáo thế giới. Thế giới loài người đã minh định một giá trị bất biến, con người sanh ra dù bất cứ nơi đâu, ở chủng tộc nào đều có quyền được tôn trọng, bình đẳng, và được quyền khao khát, kiến tạo hạnh phúc.

Nếu hạnh phúc là mục tiêu của toàn bộ đời sống con người tìm kiếm, thì văn hóa chính là một phần của sự kiến tạo hạnh phúc đó. Con người thiếu văn hóa sẽ hoàn toàn thiếu thức ăn nuôi sống tinh thần. Hạnh phúc tinh thần không có, thì dù rằng vật chất và thể chất sung mãn cũng chỉ là cành lá, khi không có gốc rễ thì thân cây con người dễ lung lay, yếu ớt và sẽ đổ ngã bất cứ lúc nào. Bởi lẽ, văn hóa tinh thần luôn luôn là sự kiến tạo căn bản cho mọi sự kiến tạo. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng văn hóa phi vật thể luôn tồn tại bền bỉ qua thời gian, nếu biết gìn giữ và phát huy.

Trong bài pháp Bốn sự thật của cuộc đời, đức Phật dạy: Đây là khổ, tập là nguyên nhân của khổ, khổ cần phải diệt, đạo là con đường đưa đến diệt khổ. Sự thật thứ nhất chỉ đến toàn bộ sự thống khổ của con người cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần. Ba sự thật sau, chính là tinh thần cần phải quyết định, trong đó văn hóa không thể vắng mặt. Có tinh thần sáng tạo mà vắng mặt văn hóa sáng tạo thì sự sáng tạo đó sẽ dẫn đến phá sản, bởi vì sự sáng tạo thiếu phương hướng, mất căn bản trí tuệ. Xây dựng nền kinh tế vật chất mà không nghĩ đến tương lai đời sống văn hóa lành mạnh, thì nền vật chất đó kết quả sẽ có nhiều khổ đau, hạnh phúc nơi con người khó thực hiện.

Sở dĩ, cộng đồng con người cần phải nhắc lại và nhấn mạnh đến sự hiện hữu của đức Phật có mặt giữa cuộc đời, vì nơi Ngài hội tụ sự thiết thực cho cuộc đời con người bất cứ thời gian nào.

Cho đến hôm nay, hình ảnh và nội dung thị hiện của đức Phật là một thông điệp của tình thương và trí tuệ mang đến cho loài người. Nếu không có tình thương yêu đồng loại, thì mọi sự xây dựng và kiến tạo hạnh phúc của loài người sẽ không có. Khi nghĩ đến hạnh phúc cho mình, hay quốc gia của mình mà không nghĩ đến lợi lạc cho người khác và quốc gia khác, thì chắc chắn hạnh phúc đó sẽ không thành tựu. Bởi vì, hạnh phúc đó đã xây dựng trên chiều hướng tư duy ích kỷ, nghi kỵ và bất bình đẳng, thì kết quả chiến tranh và xung đột ngầm ngấm luôn xảy ra. Trí tuệ là kết quả của sự thức tỉnh, hay là sự giác ngộ của mọi hiện tượng diễn ra trong thế giới. Nếu không có thức tỉnh từ con người thì con người sẽ không thấy được trật tự luân chuyển của thế giới. Một thế giới chung, toàn cầu hóa là thế giới đó phải gặp nhau trong sự vận hành và có chung một niệm tư duy. Chiến tranh, xung đột chủng tộc, khủng bố, suy thoái kinh tế, giàu nghèo, môi trường sống của loài người bị đe dọa đó là kết quả của một tư duy thiếu đồng nhất, mà con người bất cứ nơi đâu đều phải đối diện, không phân biệt ở quốc gia nào. Hơn nữa, không chỉ con người mà cỏ cây, động thực vật các loài khác cùng nhận lãnh một kết quả chung, đó là sự thiếu thức tỉnh của con người. Không ai hết con người phải đối diện và nhận lãnh kết quả đó.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới, và trong rất nhiều nghị sự thượng đỉnh của các cấp lãnh đạo quốc gia hiện nay, khi gặp nhau đều có chung một ý niệm, phải làm gì để cứu vãn tinh thần của con người, bên cạnh sự chạy đua tăng trưởng kinh tế và đời sống vật chất. Có một bậc đạo sư Phật giáo đã kêu gọi đến các nhà lãnh đạo của các quốc gia hãy nghĩ đến “thức tỉnh toàn cầu”. Đó cũng là tiếng nói và cái thấy của sự thức tỉnh trong trật tự vận hành mà loài người cần quan tâm.

Thế giới con người xác định giá trị những cống hiến của đức Phật mang lợi ích lớn lao, đó là một bước tiến lớn trong tư duy. Nhưng lợi ích mà con người gặt hái được trong sự cống hiến này, không phải chỉ trong tư duy đúng mà còn phải thể hiện ngay trong cuộc sống. Do vậy, trong ngày lễ trọng đại này của thế giới, là người con Phật chúng ta hãy nên xác định lại, mỗi người Phật tử là những chiến sĩ tiên phong trong trận chiến giữa ta và người, cái đẹp và xấu, thiện và ác để có chung một sự hòa hợp tạo thành một thế giới tương đối thật sự có hạnh phúc.

Hạnh phúc thay! Tứ chúng đồng tu cũng có nghĩa đạo và đời có sự hòa hợp trong tương quan mật thiết và trong cách cư xử văn hóa thức tỉnh, đó là ý niệm thành kính nhất dâng lên đức Từ Phụ trong ngày đản sanh của Ngài. Lời dạy của đức Phật gửi đến cho chúng ta rất nhiều, tuy nhiên tựu trung lại một mối để giải quyết đó là sự khổ đau của con người, đã tạo, đang tạo và sẽ tạo cho mình và cho người. Nếu khổ đau của con người đang nhận lãnh chính là nguồn gốc của vô minh, tham ái, và hận thù thì hạnh phúc chính là tình thương, trí tuệ và buông xả vẫn đang hiện hữu giữa lòng cuộc đời và trong phút giây của đời sống. Chúng ta cần chiêm nghiệm.

 

 


SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT VÀ BÀI HỌC VIỄN LY

Thái tử Tất Đạt Đa quyết định rời những bậc Thầy của mình để tự thân khám phá con đường giác ngộ, tách rời những người bạn đồng tu qua nhiều năm cùng nhau đeo đuổi pháp tu khổ hạnh, một mình thẳng tiến trong rừng sâu, an tọa dưới cội Bồ đề, để chứng nghiệm chân lý, cho đến khi thành đạo là một hình ảnh tiêu biểu trong cuộc đời tầm đạo của Ngài nói lên sự dấn thân tuyệt đối của một con người trong thế cách viễn ly.

Con đường chứng nghiệm chân lý, hay sự thành đạo quả, thật khó có thể thực hiện được trong một thế giới ồn ào, tạp nhiễm, nơi một con người có quá nhiều sự việc, nhiều lo lắng và tâm trí của họ luôn bị chi phối, thôi thúc của sanh tưởng và dục tưởng. Con đường đi đến giải thoát giác ngộ điều kiện cần và đủ là hành giả phải thoát ly mọi sự náo động, để có được đời sống đơn độc và thư thái, an nhiên tĩnh lặng của thân và tâm.

Hình ảnh thành đạo của đức Phật dưới cây bồ đề không cùng một bóng người, đồ chúng và bạn đồng học, đối diện với sự yên lặng, tịch tĩnh để soi rọi tâm tướng của mình đã thể hiện pháp hạnh viễn ly tuyệt đối, là một bài pháp sống động mà chúng ta cần phải học và chiêm nghiệm. Thật vậy, đời sống của người xuất gia lấy lý tưởng giải thoát làm mục đích là đời sống bước ra khỏi gia đình, một nếp sống phải hạn chế các ràng buộc thế sự và dành nhiều thời gian để tu tập quán chiếu tự tâm, thấu suốt bản chất của cuộc sống đang diễn bày trước mắt. Vì vậy, sự yên tĩnh của núi rừng, cách ly xóm làng, thanh vắng nơi đô thị là hoàn cảnh thích hợp nhất cho người xuất gia. Nếu người xuất gia luôn bị quá nhiều ngoại duyên chi phối thì thật sự khó có được nội tâm vững chắc và yên tĩnh, tâm thức luôn lăng xăng thì khó có thể định tâm để làm nền tảng để hội chúng nương tựa tu tập. Do đó, qua kinh nghiệm tự chứng của mình, trong sự cần cầu giải thoát đức Phật đã dạy: “Này các thầy Tỷ Kheo hãy thoát ly đồ chúng của mình và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng dùng tư duy tu mà cắt đứt gốc rễ của đau khổ”.

Chúng ta lại biết rằng, với tâm định tĩnh sâu xa, thiền định kiên cố đức Phật đã đoạn tận vô minh, phiền não, gốc rễ sanh tử khổ đau, vượt qua bến luân hồi trong nhiều kiếp sống để thành đạo quả giác ngộ. Cũng thế, chúng ta biết được sự nghiệp và lý tưởng của người xuất gia hiện tướng bên ngoài với vô số hạnh nguyện hóa duyên cứu độ chúng sanh, cốt tủy bên trong không gì khác chính là tâm lực yên tĩnh, tâm giải thoát hay phải có sự tự chứng nội tại. Nếu người xuất gia không học được tâm thái này, chắc chắn sự tùy duyên hóa độ trở nên khó khăn, nhiều cạm bẫy, nhiều chướng duyên, bởi vì không hội đủ năng lực để độ mình thì rất khó có thể độ người cho hữu hiệu. Tâm lực và đạo lực còn yếu kém thì làm sao có thể đối diện và giải hóa được sự chiêu cảm nghiệp lực của chúng sanh, gần nhất là đồ chúng. Hơn nữa, với sức mạnh của nghiệp lực nhiều đời của chúng sanh, người tu tập nếu không cố gắng dụng công thì khả năng yên tĩnh rất khó thực hiện khi đối diện và sống chung. Cho nên, sống và thực hành pháp hạnh viễn ly trong một thế giới hiện nay là một giải pháp tốt, khả dĩ có thể thực hiện được trên con đường giác ngộ trong một thế giới đầy ồn ào và nhiều chướng nhiễm. Do đó, Đức Phật luôn khích lệ và ca ngợi người biết sống viễn ly trong mọi tình huống của đời sống:

“Vui thay chúng ta sống

Không rộn giữa rộn ràng

Giữa những người rộn ràng

Ta sống không rộn ràng.” (PC, Kệ 199).

Hơn nữa, trong thế giới và xã hội hiện đại, dù là xuất gia hay tại gia, ở đâu trong lòng quần chúng, giữa xã hội, con người cũng không thể không bị chi phối bởi lực cuốn của đời sống. Thế giới phát triển từng ngày, các phương tiện hỗ trợ cho đời sống dần được số hóa, lại càng không cho phép con người hoạt động và vận hành một cách chậm chạp, thụ động, chính vì thế nếu không để tâm kiểm soát con người cũng dễ dàng đánh mất lấy mình mà chính bản thân của họ cũng không hề hay biết. Do vậy, chủ tâm để kiểm soát nghiêm túc thân và tâm hành trở nên cần thiết hơn lúc nào hết cho tất cả mọi giới, vì có kiểm soát hành động với tâm ý tỉnh táo thì chúng ta có khả năng tránh được những phiền toái do ngoại duyên mang vào.

Thời đại hiện nay người nào thiên về lối sống khép kín hay đóng khung trong một gia đình nhỏ, thu hẹp tầm nhìn của mình với thế giới bên ngoài và môi trường xung quanh thì thật khó thích hợp, nếu không muốn nói tự trói buộc bước tiến và tự làm khó chính mình. Điều quan trọng của người biết sống là phải sống như thế nào cho cùng với sự vận hành của nhịp sống, mà không bị đẩy lùi, dẫn đến cách sống tiêu cực, ích kỷ, khép kín và cố chấp. Chính vì thế, người có tâm lý buông thả, hướng ngoại để vượt quá tầm cho phép, thì hương vị an ổn và hạnh phúc ở thế gian cũng khó đạt được, do đó sự cân bằng trong cách sống là điều cần phải suy nghĩ. Người xuất gia cũng thế, trong thế giới hiện đại không thể sống trong rừng sâu, hoặc đóng cửa sống một mình, không liên hệ với xã hội, điều này trái với nguyên tắc và không hội đủ điều kiện để gánh vác vai trò một sứ giả Như lai mang đạo vào đời. Cũng thế, nếu người xuất gia không có một đạo lực và sự nhiệt tâm tinh cần đoạn trừ ác nghiệp vững mạnh thì chắc chắn lối sống độc cư, viễn ly là bước đường dẫn đến biếng nhác và sa đọa, vì thiếu sự kiểm soát, khích lệ của quyến thuộc bồ đề làm tác duyên để tăng trưởng đạo nghiệp. Điều đáng nói là tâm lý ham thích đồ chúng, môn đồ đệ tử, người xuất gia luôn cần phải có tâm thái và pháp hạnh viễn ly dù đang sống trong một hội chúng đông hay ít người. Bởi vì trong một hội chúng nào, cũng luôn bao hàm những nhân tố tốt đẹp và xấu xa, người đồng tình và không đồng tình. Người sống gần gũi với quần chúng thì có nhiều cơ hội để làm lợi lạc cho số đông, nhưng cũng khó tránh khỏi những vướng mắc và phiền toái do đồ chúng mang đến. Do đó, trong Tăng Chi Bộ kinh đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ kheo, có những hội chúng nông nổi, hội chúng đấu tranh, hội chúng không thù thắng, hội chúng cặn bã…. nhưng cũng có những hội chúng thâm sâu, hội chúng hòa hợp, hội chúng thù thắng và hội chúng tinh hoa”.

Và hơn thế nữa, sự nhận thức để chuyển hóa các phiền não và chướng nghiệp do đồ chúng mang lại cũng là một yếu tố rất cần thiết luôn phải học để tạo dựng một hội chúng an lạc và hòa hợp. Một hội chúng mà không có được vị ngọt của chánh pháp tồn tại, đời sống xuất gia mà thiếu niềm vui trong chánh pháp thì thật là oan uổng, khó có thể thành tựu được mục đích ban đầu. Hình tướng xuất gia mà tâm trống rỗng, lý tưởng yếu đuối, nhiều phiền trược thì không khác gì thế tục, đó cũng chỉ là hình tướng, mà hình tướng thì không thể vượt qua được ác pháp, công đức cao cả của người xuất gia bị đánh mất.

Thế nên, đời sống viễn ly và tu tập pháp hạnh viễn ly là một bước cần có để hạn chế những chướng duyên, giới hạn những đường ác và hỗ trợ cần thiết cho việc tu tập đoạn trừ phiền não, hoàn thành chí nguyện xuất gia. Pháp hạnh viễn ly là pháp hạnh làm viên mãn thân tâm chánh định, dù trong bất cứ môi trường nào đang sống chúng ta cũng cần có và tạo điều kiện để có thế cách viễn ly cho phù hợp hoàn cảnh để đoạn trừ ác pháp, và làm viên mãn bồ đề.

 


SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT VÀ BÀI HỌC BUÔNG XẢ

Buông Xả nghĩa là từ bỏ một vật gì đó thuộc sở hữu, thói quen, và những ý niệm đã gắn liền với chúng ta trong suốt thời gian dài, thật hết sức khó khăn không phải đơn giản, ai cũng có thể làm được. Tuy nhiên, nếu không buông xả thì chúng ta sẽ không bao giờ có được tâm thảnh thơi, đời sống an ổn và hạnh phúc.

Thật vậy, cuộc đời của thái tử Tất Đạt Đa từ khi đản sinh cho đến ngày nhập niết bàn là một tấm gương sáng, một hình ảnh sáng chói và bài học sống động đã trải dài qua nhiều thế kỷ, cho đến hôm nay vẫn chưa có một tấm gương nghị lực, kiên định nào khác có thể để chúng ta so sánh.

Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, danh vọng quyền quý bậc nhất và những nhu yếu vật chất cần thiết thật hoàn hảo phục vụ cho đời sống là một hành động hết sức khó khăn và mãnh liệt. Trong lúc tầm cầu học đạo, Ngài cũng từ bỏ luôn cả những sự hỗ trợ trong các đường lối tu tập. Những vị Thầy đầu tiên gặp gỡ khi mới xuất gia, Thái tử Tất Đạt Đa tới tầm cầu học hỏi, Ngài cũng đã từ chối và quyết định rời bỏ họ ra đi khi quả quyết rằng lối tu đó không mang lại kết quả rốt ráo và không đủ khả năng giải thoát con người ra khỏi luân hồi sinh tử. Những người bạn đồng tu, Ngài cũng lần lượt chia tay họ, khi nhận ra rằng các lối tu khổ hạnh, ép xác hay hưởng thọ dục lạc cũng chỉ là nhọc công không phải con đường trung đạo, thực hành đúng pháp.

Cho đến khi thành đạo quả, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không yên vị dưới cội bồ đề, nơi Ngài tìm ra chân lý để hưởng thọ pháp lạc của thiền định, mà lần lượt bước đi nơi này qua nơi khác, mặc cho những nguy hiểm bao phủ xung quanh, Ngài đã không trụ vào nơi đâu để được tôn vinh, mặc dầu Ngài xứng đáng được nhận sự cúng dường của trời người, mục đích xuất hiện của Ngài giữa cuộc đời là làm lợi ích được cho chúng sanh hữu duyên.

Ngày nhập Niết bàn, Ngài cũng khẳng định với các đệ tử rằng, chánh pháp luôn trường tồn dù có mặt hay không có mặt của Ngài ở thế gian này, nếu các đệ tử Ngài biết lấy chánh pháp làm ngọn đèn, biết nhận mình là hòn đảo tự thân, nên nương tựa. Chưa bao giờ đức Phật có ý niệm chủ quyền, chủ tạo và khinh suất người khác không làm được gì, Ngài đã từ bỏ tất cả, mang tâm và thân thong dong làm sáng tỏ đạo mầu. Tất cả quá trình hành đạo của đức Phật tựa như một bức tranh bất hủ tồn tại giữa cuộc đời này, được gói gọn trong một bài kinh ngắn sau đây:

 “Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, dạy các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các ông.

Này các Tỷ kheo, cái gì không phải của các ông? Sắc, thọ, tưởng, hành và thức không phải của các ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc.

Ví như, này các Tỷ kheo, có người gom cành, lá của Jetavana này đem đốt hay tùy duyên sử dụng. Các ông có nghĩ rằng đem đốt hay tùy duyên sử dụng chúng thôi?

Thưa không. Vì sao vậy? Vì những cái ấy không phải của chúng con. Bạch Thế Tôn, những cái ấy không thuộc tự ngã chúng con.

Cũng vậy, này các Tỷ kheo, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó, các ông sẽ được hạnh phúc, an lạc.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ III, chương 1, phẩm Không phải của các ông [lược], NXB Tôn Giáo 2000, tr.67)

 Cái gì là của ta? Khi biết rằng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức đều không phải là của ta, tất cả đều do nhân duyên hòa hợp sanh ra và rồi nó sẽ tan hóa theo duyên. Sắc là tấm thân vật chất và được hiểu như là thế giới vật chất, hoàn cảnh xung quanh, những tương tác thuộc môi trường sống cơ học của con người, tất cả nó không thuộc về của ta. Có chăng chỉ là tạm mượn, chỉ là chấp vá, chỉ là lầm tưởng thuộc về mình, một sự lầm lẫn đáng sợ. Thọ, Tưởng, Hành và Thức cộng hợp với Sắc là Ngũ uẩn. Chúng được hiểu như là các thành phần của tinh thần, tâm lý và nhận thức của con người, nói chung là thế giới nội tâm của con người.

Vậy thì, cả tấm thân này, và thế giới xung quanh của chúng ta không phải là của ta, vậy nơi đâu chúng ta có thể nắm bắt và tồn tại như những gì chúng ta đang là và đang có mặt. Qua cái nhìn quán chiếu và chứng đắc sự sanh khởi của các pháp, được Phật khẳng định, các pháp sinh trưởng và tồn tại trong một pháp duyên sanh duyên khởi, chúng liên tục xoay chuyển, và nương tựa lẫn nhau, do đó để tìm một pháp có chủ tể, có tự ngã thì hoàn toàn không bao giờ có. Những gì chúng ta đang có mặt, và đang tồn tại chính là tồn tại trong sự sanh khởi và tương duyên, nó hoàn toàn Vô ngã.

Cái tôi và cái của tôi là một ý niệm tạm bợ trong ngôn ngữ trần gian dưới đạo lý duyên khởi, nếu ai nhận thức và bám chặt vào nó chính là chuốc lấy tai họa, và khổ đau vào thân, bởi vì chúng ta cầm nắm những gì mà chúng ta không hề nắm bắt được.

Buông xả theo tinh thần của đạo lý duyên khởi chính là không chấp thủ, không nắm giữ một cái gì hết. Ta và của Ta chỉ là phương tiện, sự tạm vay mượn để hướng đến mục đích. Vì vô minh và thiếu sự quán chiếu, chúng ta mượn giả làm thật, mượn phương tiện làm cứu cánh. Sống và kiến tạo hạnh phúc trong đời sống hiện tại, bắt đầu cũng từ sự vay mượn các phương tiện, chúng ta không thể thiếu những phương tiện này, tuy nhiên phải nhớ rằng đó là phương tiện và phương tiện cũng sẽ trôi nổi theo duyên sanh.

“Quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách……..”. Phải thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức đều là Không thì mới có sự thảnh thơi, an lạc và hạnh phúc. Đó là thông điệp mà Tâm kinh Bát nhã lời mở đầu đã gửi đến cho chúng ta.

Người học đạo, muốn có được sự giải thoát này, không phải chỉ để học, và để nói, mà phải biết thực hành. Bố tát còn thực hành một cách thâm sâu mới chứng đắc huống hồ một chúng sanh phàm phu như chúng ta thì càng phải nỗ lực hơn nữa, mới hầu mong thoát khỏi, sự quay khép của chấp thủ.

Thật đáng sợ biết bao khi tâm của chúng ta cứ bám vào những gì không thật và những gì không hoàn toàn thuộc về, hiểu được như thế thì chúng ta hiểu được sự thành đạo của đức Phật mang nhiều ý nghĩa thật sự. Bài học buông xả mà đức Phật tự thân chứng chính là kim chỉ nam cho hàng Phật tử hướng tới và hoàn thiện chúng trong kiếp sống luân hồi đầy khổ đau này để tìm về một chốn thảnh thơi thật sự có an lạc trong thế giới tương duyên, tạm bợ này.

 

 


ĐỨC PHẬT RA ĐỜI VÌ MỘT NHÂN DUYÊN LỚN

 

Chúng sanh vào thế gian bị thôi thúc do nghiệp lực đã tạo, có chúng sanh theo nghiệp và cũng có nhiều chúng sanh bị sức đẩy của nghiệp cuốn trôi không thể định đoạt được. Đức Phật và các vị đại Bồ tát là những chúng sanh giác ngộ đã vượt qua sanh tử và thoát ra vòng trói buộc của nghiệp dẫn, các Ngài đã dùng bi nguyện lực của mình hội nhập thế giới khổ đau để tùy duyên hóa độ.

Bồ tát Hộ Minh tiền thân của Thái tử Tất Đạt Đa thị hiện vào cõi ta bà bởi nguyện lực của mình để tùy duyên thức tỉnh cho chúng sanh trong bến khổ rừng mê. Đó là một nhân duyên lớn, một sự xuất hiện thù thắng, hiếm có ở thế gian này và cũng là bài học cho tất cả thế hệ của những con người đang đi trong lộ trình giác ngộ.

Thật vậy, thế giới của sanh tử và muôn ngàn thế giới khác là một tổng thể thế giới của trùng trùng duyên khởi trong hoa tạng pháp giới, thế giới này không có khởi đầu và không có sự chấm dứt, chỉ có tác duyên hòa hợp tạo thành điểm khởi đầu và kết thúc. Do vậy, kinh nói: “Cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt…”.

Sự ra đời của đức Phật là một nhân duyên lớn, nếu không có chúng sanh đau khổ, nếu không có chúng sanh đã và đang đánh mất Phật tính chân nguyên của mình thì đức Phật đã hằng hữu trong pháp giới, và không có đối tượng để thị hiện độ sanh. Như trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã từng dạy rằng: “Ta ra đời vì một nhân duyên lớn khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Chỉ có một việc đó thôi không việc gì khác, chỉ có sự sanh tử là chuyện lớn chứ không còn việc nào khác mà đức Phật phải bận tâm. Việc lớn là việc làm sao để chúng sanh thấy được trong mỗi người ai cũng đều có Phật tánh, và ai cũng có khả năng thành Phật như chư Phật hiện tại và chư Phật trong mười phương cõi nước, để chúng sanh quay về với chơn tâm diệu tánh.

Dù chúng sanh có khổ đau đến thế nào chăng nữa, sự đau khổ đó cũng không thể so sánh bằng nỗi khổ ra vào trong sanh tử luân hồi, do đó kinh nói rằng: “Sanh tử sự đại…. sống chết là việc lớn” . Thấy được sanh tử là thấy được việc lớn và thấy được hoài bão của mười phương chư Phật.

Tri kiến Phật của tất cả chúng sanh chính là trí tuệ sáng suốt trong mỗi con người. Tri kiến này chính là tâm thức vắng lặng không còn sự ô nhiễm của vô minh, và tham ái mà tất cả chúng sanh ai cũng đầy đủ vẹn toàn, có mất đi chính là chúng sanh đánh mất Phật tánh của chính mình. Như trong kinh đã ẩn dụ, kẻ nghèo khó bỏ cha mẹ mà đi lang thang từ phương này đến phương khác, tìm kiếm miếng cơm manh áo qua ngày, chấp nhận thân phận bần cùng khốn khổ, làm thuê mướn nay đây mai đó, cuối cùng quay về cố hương mới biết ra rằng nhà ta không phải nghèo đói đến thế, mà chính ta tự luống sống với thân phận khốn khổ đó, trong ta vẫn có kho báu tràn đầy, đầy đủ gia tài của một thân phận trưởng giả.

Tri kiến Phật không gì khác hơn là tự tánh sáng suốt của mỗi người, là tự tánh của vạn pháp sai biệt, tự tánh này là do nhân duyên sanh, không thật có, luôn trường tồn trong sanh diệt. Như kinh đã dạy: “Một người tán loạn tâm bước vào tháp miếu miệng xưng nam mô Phật đều đã thành Phật đạo ” đó là sức mạnh của nhân quả trong giáo lý duyên khởi. Giáo lý này cho chúng ta thấy rằng không có gì mất đi dù trong tâm niệm. Một hành động có ý thức được tạo ra là một chuỗi nhân quả theo sau, cho đến ngày hội tụ, và đủ duyên thì kết trái nở hoa, quả hiện.

Giác ngộ cho chúng sanh thấy được Phật tánh của mình là việc lớn là nhân duyên lớn, đó là hoài bão của ba đời chư Phật xuất thế. Bởi lẽ, chúng sanh nhiều căn cơ khác nhau, nhiều tùy hiểu khác nhau đối trước vạn pháp sai biệt do sự kết duyên sai khác của nghiệp lực. Do đó, đức Phật hiện thân nhiều sắc tướng, môi trường, và nói nhiều nghĩa lý sai khác để dẫn dắt và cuối cùng là con đường thoát ly sanh tử đưa đến Phật quả (tri kiến Phật) cho chúng sanh.

Hiểu được như vậy thì sự tu hành phải có kết quả, có tu thì có chứng, có chúng sanh giác ngộ thì có Phật tương lai, trong mê đắm hay trong thức tỉnh khi ý thức khởi dậy thì quả sẽ hiện tiền, đó là một nhân duyên mà chúng ta cần phải hiểu và tin tưởng tuyệt đối. Nếu không có nhân quả và không tin nhân quả thì việc tu hành của chúng ta cũng luống trôi theo ngày tháng của sanh diệt, bến bờ tu hành là một con đường tăm tối, bởi lẽ ý thức làm mới và ý thức hướng thiện của chúng ta sẽ lu mờ trong cõi vô minh phan duyên trần cảnh.

Kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ôn lại hoài bão của chư Phật chính là sự tự nhắc nhở của mỗi người con Phật, trong ta có Phật và hãy phát huy Phật trong ta đang đi vào dòng sanh tử để tìm đưòng thoát ly sanh tử.


TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH

 

Sau khi chia tay những người Thầy kiệt xuất, bạn đồng tu đã từng trải nghiệm qua nhiều pháp môn và những năm trầm mình trong khổ hạnh, sa môn Gautama quyết định đơn thân độc mã đi vào rừng sâu để tìm ra chân lý giải thoát, khi quả quyết rằng những quả vị tu chứng của các bậc thầy mà Ngài đã học được chưa phải là rốt ráo, không phải con đường thoát khỏi vòng quay sanh tử. Sức nguyện lớn của sa môn Gotama là phải đạt giác ngộ, tìm ra con đường thoát ly sanh tử, cứu độ chúng sanh. Đại chí nguyện và đại bi lực ẩn chứa trong tâm thức của Ngài, được biểu cảm qua câu nói cực kỳ dõng mãnh, thể hiện sức mạnh Toàn giác của con người tỉnh thức: “Ta ngồi nơi đây gia tâm thiền định, dù thịt nát xương tan, nếu chưa chứng được vô thượng chánh đẳng chánh giác, ta quyết không rời khỏi chỗ này!”.

Thật vậy, trong suốt 49 ngày đêm miên mật thiền định dưới cội cây cổ thụ Assatha, khi ánh sao mai chiếu sáng rực rỡ giữa màn đêm, thì cũng chính lúc sự kiện giác ngộ bừng sáng trong tâm thức của Ngài. Sa môn Gautama đã thứ lớp mở toang màn vô minh đã che lấp chúng sanh qua từng kiếp sống. Ngài đã khẳng định với thế giới loài người, cõi trời và ba ngàn thế giới Phật trong hoa tạng pháp giới: “Sanh đã tận, Phạm hạnh dĩ thành”. Từ nay, Ngài là người chiến thắng hoàn toàn, một con người tự do, tự tại giữa thời gian vô tận và không gian vô biên.

Sau khi thành đạo, cũng chính là lúc Thái tử Tất Đạt Đa trịnh trọng tuyên bố Ta là một vị Toàn giác, một vị Phật đã thành, xưng hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật. Một chúng sanh sở hữu toàn bộ trí tuệ của nhân loại, người đã chiến thắng nội ma ngoại chướng để kết thúc một quá trình thực nghiệm chân lý. Sự thành đạo của đức Phật, cũng chính là sự đánh dấu một con đường dài tìm kiếm giải thoát, con đường mà trải qua bao kiếp sống, Ngài đã dốc hết tâm nguyện của mình thông qua sự tu tập. Giây phút giác ngộ của đức Phật cũng khép lại lộ trình hành Bồ tát đạo suốt ba A tăng kỳ kiếp. Lời thọ ký của đức Phật Nhiên Đăng đã được chứng minh, ước nguyện của chính Ngài đã thành tựu, năng lực giác ngộ của con người được thể hiện một cách sống động và đầy uy lực của một bậc Vô úy. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầy đủ những đặc tính Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi.

Sự giác ngộ để thành một vị Phật hiện tại là khẳng định một sự trở về trong pháp tính chân như, trong chân tâm thanh tịnh, viên giác diệu tâm, Như Lai Tạng tánh nối tiếp chủng Phật của mỗi chúng sanh. Sự thành đạo của đức Phật là sự hiện tướng như một con người đã đi đến đích, thấy rõ ngôi nhà vô minh trói buộc vô số chúng sanh đang đắm chìm:

“Này hỡi người thợ làm nhà,

Như Lai đã tìm được Ngươi,

Từ nay Ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa,

Tất cả sườn nhà đều bị gãy, cây đòn dong của Ngươi dựng lên cũng bị phá tan, Như Lai đã chứng quả Vô sanh bất diệt, Như Lai tận diệt mọi ái dục”.

Sự thành đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một thông điệp sống động và chuyển tải toàn bộ nội dung giáo dục sâu sắc vô tiền khoáng hậu. Bản văn Ngài đã gửi đến để khuyến khích thế giới loài người, và trong các cảnh giới chúng sanh khác được thâu gọn trong sáu chữ: CHÚNG SANH LÀ PHẬT SẼ THÀNH.

Không còn một sự giáo dục nào cao thượng hơn hết, và có thể so sánh được khi cho chúng sanh biết tất cả đều có Phật tính. Mỗi chúng sanh đều có khả tính vô biên, và đều có thể thành Phật. Phật tính của mỗi chúng sanh mất đi chính là sự trôi dạt theo dòng chảy vô minh. Con đường giáo dục Nhất thừa được đức Phật nói trong kinh Pháp hoa, chính là một sự khẳng định tuyệt đối về khả năng của mỗi chúng sanh, ai cũng có tánh giác và ai cũng có thể giác ngộ. Không có sự giáo dục nào cao cả hơn nữa, khi đối tượng giáo dục biết xác định lại khả năng của chính mình, một khả năng có thể thành tựu mọi ngóc ngách đời sống nằm ẩn dật trong nhận thức và ý chí của mình. Phật là con người giác ngộ. Giác ngộ toàn bộ hệ thống trật tự của nhân sinh và thế giới quan, thì còn con đường giáo dục nào so sánh hơn.

Bên cạnh hệ thống giáo dục Thượng thừa, sự thành đạo của đức Phật cũng chuyển tải nhiều nội dung khác nhằm hướng đến khai phóng tuệ giác của chúng sanh, đúng trong tinh thần Khai - Thị - Ngộ - Nhập Phật tri kiến. Khai - Thị là mở bày và chỉ cho chúng sanh thấy và biết được nhiều phương tiện để đi vào ý nghĩa đích thực của đời sống và thực hiện chân lý giải thoát. Nếu thế giới xung quanh là mặt bằng sinh trưởng, và chuyển đổi đời sống của con người thì sự giáo dục này cho chúng sanh thấy toàn bộ chúng là một hệ thống tương quan tương duyên để sinh tồn. Từ điều thấy và biết đó, chúng sanh bừng ngộ được rằng không có một ngã thể nào trong hệ thống tương duyên sanh khởi này mà chính là vô ngã pháp. Tính chất vô ngã của các pháp chính là Phật tính hay pháp tính (tri kiến Phật) nơi chúng sanh hữu tình và vô tình lưu xuất. Khi chúng sanh hiểu rõ được, ngay bản ngã mình đang sống cũng là giả dối, không thật thì cũng có thể buông xả được những gì mình đang bám víu. Tư duy về vô ngã của vạn pháp chính là một sự trưởng thành trong trật tự sinh tồn, và có khả năng làm mới các hiện tượng, vì lẽ thế giới này là một dòng trôi chảy không bao giờ ngừng nghỉ. Sự có mặt của các pháp chính là sự phản diện giữa cái có và cái không để khẳng định một cái không thật trong trật tự thế giới hiện hữu. Hiểu rõ được trật tự thế giới là một sự tương duyên tương tức, cái này hiện hữu bởi cái kia hiện hữu, cái này tan rã bởi cái kia tan rã để không bám víu đó là trí tuệ siêu việt, mà chúng sanh cần phải đạt đến.

Sự thành đạo của đức Phật không những cho chúng ta những bài học sâu sắc về lý tưởng giải thoát giác ngộ trong một tương lai nào đó, mà rất thực tiễn trong đời sống thường nhật. Trước nhất, chúng ta xác định sự hằng hữu của tánh giác luôn hiện hữu trong mỗi con người, thực tế tánh giác đó có thể thực hiện được ngay trong cuộc sống. Thứ đến, bài học quên mình không phải là đánh mất mình mà chính là quên mình để phục vụ tha nhân. Chí nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh là một chí nguyện lớn lao và cao thượng không thể thỏa mãn trong một cái gì đang sở hữu, và không nắm giữ cái đang được sở hữu. Thứ nữa, sự giác ngộ thành Phật của Ngài là một minh chứng hùng hồn kết quả của một quá trình đeo đuổi, thực hiện sự tự hoàn thiện của chính mỗi người.

Hôm nay, chúng ta kỷ niệm ngày Thành đạo của Ngài, chính là sự nhắc nhở cần phải khơi dậy khả tính vô biên mà mỗi con người đã và đang sở hữu, để tiếp tục con đường dấn thân phục vụ tha nhân, làm lợi lạc, mang lại hạnh phúc cho mình và cho người, như đức Phật đã từng nói: “Ta ra đời vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người”.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn