Cốt Lõi Kinh Kim Cang Và Duy Thức

28 Tháng Mười Một 201811:03(Xem: 6960)

CỐT LÕI KINH KIM CANGDUY THỨC
Thích Minh Không


kinh kim cangRằm tháng 10 Mậu Tuất..

Kinh kim cangduy thức từ trên 2000 năm nay đã được bàn ngang bàn dọc rất nhiều do đó ngày hôm nay tôi chỉ đưa ra một cái nhìn cá nhân vào cốt lõi cúa 2 môn học thọat nhìn thì tương phản nhưng thật ra bổ túc và ôm ngoàm nhau như âm và dương, có và không. Trước khi đi vào chủ đề, tôi cũng nhấn mạnh và nhắc lại  tính chất bất định  và vô lượng nghĩa của phật pháp : nền tảng là giúp ta tiến triễn trên đường Đạo nhưng cái mà ta cho là chân lý có thể khác nhau tùy theo mỗi người, và ngay cả một con người cũng thay đối cái nhìn qua thời gian qua quá trình tu tập. Chúng ta chỉ là những người mù sờ voi cho đến khi nào mở mắt (giác ngộ) thì mới thấy Chân Lý toàn vẹn.

Cốt lõi của kinh kim cangtâm bình đẵng. Bình đẵng giữa con người với con người, bình đẵng giữa con ngườichúng sinh khác, bình đẵng giữa chúng sinh và chư Phật. Bình đẵng là vì đồng nhất về thể tánh dù rằng khác nhau về tướng trạng và nghiệp thức. Nhưng thực hiện được tâm bình đẵng là thể hiện được tánh không.Nhưng không thể nào hiểu tánh không nếu cứ bám víu vào những cái có ; bám vào những gì gọi là sở đắc dù là vật chất hay tâm linh. Khi nhìn về tánh không nào là tánh không duyên khởi hay chân không diệu hữu vv..thì cũng khó mà sống được tinh thần tánh không. Có thể giản dị hơn khi nói rằng tánh không nói lên cái không nắm bắt được, cái vô sở hữu của mọi pháp từ vật chất tới tâm linh, từ đó phát triễn tâm xả bỏ, thực hiện tinh thần ‘ưng vô sở trụ…Cốt lõi của kinh kim cang nằm ở sự hiểu tứ tướng (hay tứ kiến) : tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

Tướng ngã là tướng chấp ngã  ; do tướng chấp ngã nên sản sinh ra chấp nhân tức là người khác, sinh ra chấp chúng sinhtượng trưng cho những không gian ; bị ràng buộc vào một không gian nào đó ;  sinh ra chấp thọ giả là tượng trưng cho thời gian bị ràng buộc trong một thời hạn nhất định. Nói tóm lại vì cái nhân chấp ngã mà sinh ra các quả ; quả chấp ngãý thức phân biệt ta - người và nói rộng ra là ý thức nhị nguyên nhìn nhận những xấu tốt, thiện ác, lợi hại vv…, quả chúng sinhý thức biện biệt này cột chặc và giới hạn vào những không gian của lục đạo luân hồi (25 cảnh giới ), quả thọ giả là quả tượng trưng cho thời gian tức là cũng bị cột chặc vào thời gian mà không thoát được dù ngay cả sinh ra trong cõi trời đời sống có thể tới hàng vạn năm hoặc trong thoáng chốc như vài loài sinh vật…

Như vậy từ sự chấp ngãý thức phân biệt dẫn ta đi lòng vòng hết kiếp này tới kiếp khác, sinh tử tiếp nối.

Cốt lõi của duy thức nhằm ở sự khẵng định ở nơi 8 thức tâm vương ( và cũng có thể hiểu rộng ra là ở mọi tâm thức dù là tâm sở…) được cấu thành do 4 yếu tố : kiến phần, tướng phần, tự chứng phần, chứng tự chứng phần. Kiến phần hay gọi là chủ thể hay gọi là năng. Tướng phần hay gọi là đối tượng hay gọi là sở. Tự chứng phầnchứng tự chứng phầnnghiệp thức và chia ra biệt nghiệp ( cái nghiệp riêng) và cộng nghiệp ( cái nghiệp chung của loài đó hay của nhóm đó). Tám thức tâm vương là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt, thân , ý, mạt na thức, a lại da thức ( còn gọi là tàng thức).Thí dụ như nhãn thức hình thành qua căn mắt tiềp xúc với sắc trần nhưng vẫn nằm trong vòng kiềm toả của nghiệp chẵng hạn cộng nghiệp là nghiệp loài người ( nhãn thức hình thành giới hạnmột độ xa gần , sáng tối, hay đối tượng sắc của loài người…)  và biệt nghiệp là nghiệp riêng của người đó ( mỗi cá nhânnhãn thức khác nhau nhưng cũng không vượt qua được cái khả năng cuả cộng nghiệp) Trong kinh có diễn tả mắt con người thấy sông là nước trong khi loài ngạ quỷ thấy sông là lửa trong khi loài trời thấy sông là lưu ly, là ngọc quý…Cũng vậy nhĩ thức ở cộng nghiệp loài người, căn nhĩ sẽ chỉ nghe được những âm thanh ở những tần số và décibel nhất địnhbiệt nghiệp là những khả năng riêng cho cá nhân đó. Ở đây tôi cũng nhấn mạnh là nghiệp tác đông không phải chỉ đơn thuầnvật lý mà là toàn bộ tâm thức. Cũng vì vậy mà có người thích loài hoa này trong khi người khác thích loài hoa khác. Sự cảm nhận về chân, thiện, mỹ trong biêt nghiệp đưa đến những cái nhìn khác nhau, những quan niệm khác nhau.Và những thức tâm vương khác cũng như vậy.Đó là cái cộng nghiệp riêng của từng loài và biệt nghiệp riêng của từng cá nhân.               

Cũng cùng một cái nhìn như vậy, trong đại thừa khởi tín luận,ngài Mã Minh đã nói về tam tế : năng, sở, nghiệp…năng tương ưng với kiến phần, sở tương ưng với tướng phần, nghiệp tương ưng với chứng phầnchứng tự chứng phần. Nghiệp mà Mã Minh nói tới được  chia chẻ  thành biệt nghiệp và cộng nghiệp trong duy thức. Trong cái biệt nghiệp còn chia chẻ thành chánh báoy báo. Chánh báo chính là cái thân và tâm của chính mình còn y báo là cái môi trường mà mình sống trong đó. Cộng nghiệp thì cũng có thể nhìn qua nhiều mức độ chẵng hạn cộng nghiệp là loài người ; cộng nghiệp là người VN ; cộng nghiệp là dân chúng cùng sống ở một thành phố nào đó và từ đó tương ưng những biệt nghiệp khác nhau.                                                                                                        

    Khi nói về thập bát giới ; 6 căn ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần ( sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp)  qua 6 thức ( nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) thì 6 thức này hình thành do cộng nghiệp và biệt nghiệp. Và rồi tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này đều không ra khỏi ‘thập bát giới’ này. Nên hiểu chữ giới trong thập bát giới là cái giới hạn mà ta không thoát ra được khi chưa giác ngộ, khi chưa giải thoát                                                                                                                                                                                                                                                                              

Kinh kim cang là tiền đề để đi vào tánh không : gọi là tìền đề vì bước đầu kinh kim cang bắt đầu bằng thể hiện tánh huyễn ; cái vô thường thoáng chốc ( sát na vô thường) như trong câu : nhất thiết hữu vi pháp, như mộng,huyễn,bào, ảnh ; như lộ diệc như điện ; ưng tác như thị quán ( các pháp hữu vi như mộng,như huyễn,như bọt nước,như sương mai,như điện chớp ; cần phải quán như vậy.). Nhưng trong cái sát na vô thường đó thì luôn luôn có mặt cái thường hằng bất biến là chủ thể. Thường, lạc, ngã, tịnh trong kinh đại bát niết bàn nói lên những tính chất của tính chân như đó.  King kim cang cũng có nói nhiều về tính giả danh theo công thức như cái đó không phải là cái đó nên gọi là cái đó…núi không phải là núi nên gọi là núi vv... Đó là tiến trình : có-không-không-có.                                                                                                       Duy thức thể hiện tánh có, tùng tướng nhập tánh là theo cái tướng mà đi vào cái tánh. Duy thức phân tích những trạng thái của tâm, chỉ rõ những nguyên nhânđiều kiện của sự hình thành và tiêu diệt của từng trạng thái tâm thức. Kim cang hòa nhập với duy thức thể hiện tinh thần vừa là ‘tánh không duyên khởi ‘  vừa là ‘ chân không diệu hữu ‘ Cái diệu hữu cuả duy thức hình thành từ 94 tâm hữu vi đi tới  6  tâm pháp vô vi. Rồi thì nhờ sự tu tập bằng cách tác động trên những chủng tử để chuyển hoá thì từ từ  các thức tâm vương chuyển ra thuần tịnh và từ đó chuyển hoá thành trí. Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức) chuyển ra ‘ thành sở tác trí’ . Ý thức chuyển thành ‘diệu quan sát trí. Mạt na thức chuyển thành ‘bình đẵng tánh trí (tâm chấp ngã trở thành vô ngã) A lại da thức chuyển thành ‘đại viên cảnh trí ‘ . Có thể nói tứ trí này là ‘diệu hữu ‘ cuả ‘không’.                                                                                                                                                                                           

Trên đây là vài cái nhìn riêng về cốt lõi của kinh kim cangduy thức. Mong rằng các đạo hữu tự đào sâu và soi rọi theo tinh thần ‘tự đốt đuốc lên mà đi ‘.           
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7214)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham ái là bản chất của con người. Ái dục, luyến ái nam nữ có vị ngọt, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ.
07 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 7662)
Đam mê là một cái thú đồng thời là cái tật của con người. Có thể nói rằng hầu hết những người làm nên cơ nghiệp đều bắt đầu từ những đam mê nhưng có không ít người cũng vì đam mê mà thân bại, danh liệt. Cuộc sống nếu thiếu đam mê sẽ nhạt nhẽo, vô vị và mất sinh khí. Vì thực ra, đam mê vốn không phải là tội lỗi nhưng vấn đề cần đặt ra với con người là đam mê cái gì, đam mê như thế nào?
01 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 8410)
Theo lời dạy của Thế Tôn: “Tại sao gọi đó là đuốc sáng? Nghĩa là đã dứt hẳn tham dâm, sân giận và ngu si”
29 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5742)
Ai cũng biết câu “Gần đèn thì sáng”. Trong đạo cho đến ngoài đời, nếu gặp thầy hay và bạn tốt, chắc chắn sự nghiệp của chúng ta sẽ thăng tiến, cuộc sống sẽ gặp nhiều điều tốt lành. Thầy hay và bạn tốt chính là thiện tri thức. Nhưng với thực tế đời sống hiện nay, thiện ác lẫn lộn, thật giả khó phân, cũng không phải dễ biết ai là thiện tri thức để tựa nương.
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5230)
Đạo Phật chủ trương “duy tuệ thị nghiệp”, không duy tín ngưỡng và thần quyền. Nhìn bức tranh Phật giáo lung linh sắc màu tín ngưỡng và thần quyền hiện nay, người có đạo tâm dù lạc quan đến mấy cũng trầm tư về tính hai mặt của phương tiện. Nói theo pháp phương tiện một cách quá đà, không khéo cũng rơi vào vọng ngữ.
06 Tháng Mười Một 2015(Xem: 4939)
Sau mỗi thời tụng kinh, người đệ tử Phật thường nguyện “Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyển”. Nguyện cho ánh sáng Phật pháp thường chiếu rọi soi sáng thế gian. Nguyện cho bánh xe Chánh pháp quay hoài để lời Phật được lưu chuyển cùng khắp.
21 Tháng Mười 2015(Xem: 5034)
Giáo huấn của Đức Phật thật rõ ràng, muốn thành tựu giải thoát an lạc thì cần từ bỏ, không thân cận, không “tham đắm pháp dục và lạc”, đồng thời “tu tập đạo chí yếu”. Người học đạo không thân cận hai pháp dục và lạc vì thấy rõ “Đây là pháp tầm thường ti tiện. Lại đây là trăm mối khổ não”.
15 Tháng Mười 2015(Xem: 5598)
Người hiện tướng đầu tròn, áo vuông nhưng thiếu vắng phạm hạnh, không có oai nghi, các căn không hộ trì, tâm ý tán loạn, các ác đủ cả… thì những vị này chỉ “tựa như Sa-môn” mà thôi.
07 Tháng Mười 2015(Xem: 5374)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh; rồi sau đó là 49 ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề, trở thành bậc Giác Ngộ - chúng ta sẽ thấy rõ tầm quan trọng của nhẫn lực và tư duy lực