Chương IX: Tinh Thần Của Bồ Tát

09 Tháng Hai 201508:33(Xem: 5263)

KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Thích Giải Hiền soạn dịch


CHƯƠNG IX: TINH THẦN CỦA BỒ TÁT

[Từ trang nghiêm cố, ư chư chúng sanh bất khởi não hại. Bi trang nghiêm cố, mẫn chư chúng sanh thường bất yểm xả. Hỷ trang nghiêm cố, kiến tu thiện giả tâm vô hiềm tật. Xả trang nghiêm cố, ư thuận vi cảnh vô ái nhuế tâm]. Đoạn kinh văn nói về Tứ vô lượng tâm, cũng chính là tinh thần của Bồ Tát giúp chúng ta bồi dưỡng tấm lòng từ bi tế thế, Người học Phật muốn thành tựu nhân cách viên mãn như chư Phật, thành tựu từ bi và trí tuệ như chư Phật đều phải bắt đầu từ con đường hành Bồ Tát đạo. Bắt đầu từ bình đẳng, tùy hỉ, bạc khổ, dữ lạc.

  1. Từ vô lượng

[Từ trang nghiêm cố, ư chư chúng sanh bất khởi não hại]. Từ vi dữ lạc là cho người niềm vui, bồi dưỡng tâm từ bi, đồng thời cũng giúp xa rời tâm não hại, không bao giờ mống niệm làm tổn hại đến người khác. Đối với tất cả chúng sinh, kể cả những người có thù nghịch với mình hay người đã từng hại mình đều bình đẳng không phân biệt, dùng lòng từ bi để đối đãi với họ. Đó chính là tinh thần “vô duyên đại từ” của Phật giáo. Vô duyên tức là không cần bất cứ điều kiện gì. Người đời khi giúp đỡ người khác thường đặt nhiều điều kiện để suy tính, họ có quan hệ với mình không, có cần đáng giúp đỡ không, có ảnh hưởng đến sự nghiệp của mình không, có đem đến phiền phức không, trong tâm lúc nào cũng khởi lên những tính toán trước khi thực hành việc giúp đỡ. Còn trong mắt của Bồ Tát thì tất cả chúng sinh đều bình đẳng, không phân biệt, chúng sinh với chúng sinh là bình đẳng, chúng sinh với bản thân mình cũng bình đẳng, không ai có tâm hại mình, không ai là chẳng nghĩ đến mình. Nếu chúng ta nhận thức được giữa người và mình không hai, giữa mình và chúng sinh không sai biệt thì tự nhiên sẽ nghĩ vì người khác nhiều hơn, tự nhiên sẽ cho người tất cả. Đó chính thật là từ tâm của Bồ Tát.

  1. Bi vô lượng.

[Bi trang nghiêm cố, mẫn chư chúng sanh thường bất yểm xả]. Bi vi bạc khổ, tức là giải cứu, bạc trừ những đau khổ cho chúng sinh. Vì tu tập tâm bi vô lượng nên thường phát khởi tâm lân mẫn với tất cả chúng sinh mà không khởi tâm mệt mỏi. Tinh thần của Phật giáo là đồng thể đại bi. Đồng thể tức là xem chúng sinh và mình như một, biết đau với niềm đau và nỗi khổ của chúng sinh, cái người ta cần cũng chính là cái mà mình cần. Trong kinh Duy Ma Cật, có người hỏi cư sĩ Duy Ma Cật vì sao bị bệnh, Ngài đã trả lời: “Tất cả bệnh của chúng sinh là bệnh của ta. Khi chúng sinh hết bệnh, thời ta hết bệnh”. Cũng giống như người mẹ đối với con, dù cho đau khổ có lớn nhường nào cũng vẫn tình nguyện chịu khổ thay con, thậm chí có thể đem cả mạng sống của mình để đổi lấy mạng sống cho con.

Bồ Tát tu tập phải biết đem tình thương của mẹ đối với con phát triển đến vô lượng hết thảy chúng sinh. Cho nên không những chỉ đối với người thân mà còn mở rộng lòng từ bi của mình đến với tất cả những người dù là oán thù, thậm chí đối với tất cả những loài động vật côn trùng nhỏ nhất cũng vẫn khởi tâm vô duyên đại từ, đồng thể đại bi để thành tựu quá trình tu tập lòng từ bi quảng đại của Phật giáo.

  1. Hỉ vô lượng.

[Hỷ trang nghiêm cố, kiến tu thiện giả tâm vô hiềm tật]. Hỉ tức tùy hỉ, là sự tương phản với đố kị. Con người vì chấp ngã mà thường sanh tâm đố kị với sự thành đạt của người khác, do sự chướng ngại bởi lòng đố kị nên rất khó phát sinh từ nội tâm lòng tùy hỉ đối với người khác. Nhưng với việc tu tập hỉ vô lượng của Bồ Tát thì trong nội tâm phải phát xuất lòng hoan hỉ trước mọi thiện hạnh và với người thực hiện thiện hạnh ấy. Đó cũng chính là tiêu chí để kiểm định tâm hỉ vô lượng, khi nhìn thấy người khác tu thiện liền sanh tâm hoan hỉ hay khởi tâm ghen ghét đố kị. Chỉ cần mống khởi một tâm niệm không tùy hỉ dù là rất nhỏ, điều đó cũng chứng minh được rằng ta chưa thành tựu được tâm hạnh hỉ vô lượng.

Trình tự tu tập hỉ vô lượng cũng giống như trình tự tu tập bi vô lượng. Đầu tiên cũng phải bắt đầu với người thân của mình, sanh tâm hoan hỉ trước thành tựu của họ, chân thành tán thán cũng ví như cha mẹ hoan hỉ, tự hào trước thành tựu của con cái, rồi nhân rộng tâm tùy hỉ đó với nhiều người, kể cả người xa lạ với mình. Và cuối cùng là đến với người ghen ghét với mình cũng vẫn tán thán tùy hỉ trước thiện hạnh và thành tựu của họ, không chỉ bằng lời nói mà phải bằng cả nội tâm.

  1. Xả vô lượng.

[Xả trang nghiêm cố, ư thuận vi cảnh vô ái nhuế tâm]. Xả tức bình đẳng, đối nghịch với sự phân biệt. Tu tập xả vô lượng phải có tâm bình đẳng giữa kẻ oán và người thân, không lấy tâm oán ghét mà dùng tâm bình đẳng để đối đãi với người thân kẻ sơ cùng thuận duyên và nghịch cảnh, rồi phát triển tâm thái đó đến tất cả mọi chúng sinh, tất cả mọi hoàn cảnh. Trong bốn vô lượng tâm, bình đẳng xả tâm rất quan trọng. Nếu đạt được xả tâm bình đẳng thì từ bi và hỉ vô lượng nhất định sẽ đạt được bởi vì chỉ cần chúng ta còn có sự phân biệt tốt xấu thì rất dễ từ bi với người này mà lại không từ bi được với kẻ khác, dễ tùy hỉ với một số đối tượng nào đó nhưng không thể tùy hỉ với một số người mà mình không muốn. Chỉ cần chúng ta tư bi với rất nhiều chúng sinh nhưng vẫn có một người không nằm trong phạm vi mà mình yêu thương thì hiển nhiên chúng ta sẽ không có được tâm hạnh vô lượng của chư Phật và Bồ Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Năm 2016(Xem: 10793)
19 Tháng Ba 2016(Xem: 8378)
Bịnh trầm kha của con người là thích tìm tòi những giải đáp thắc mắc cao siêu để thỏa mãn óc hiếu kỳ mà thiếu thực tế với đời sống, thích luận bàn những việc xa vời viễn vong không tưởng hơn là thực hành để đem lại an lành hạnh phúc bản thân. Chứng bịnh trầm kha nầy đã đẩy con người sống chơi vơi trong huyền đàm phiếm luận của thiết thực đến đời sống đạo đức tiến bộ. Vì vậy số người mang danh hành đạo thì nhiều mà chứng đạo thì gần như gợn mây mỏng trong bầu trời giáo pháp. Để tránh mắc phải bịnh năng thuyết bất năng hành, cổ đức đã khuyên: Muốn đạt thành tâm nguyện tiến bộ thì cần phải “tri hành hợp nhất, trí đức tương ưng”.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 7278)
Kinh tâm - Bát nhã ba la mật đa là một bản kinh được rút ra từ bộ kinh Đại Bát nhã, gom lại thành 262 từ. Qua nhiều thế hệ dịch thuật, các dịch giả đã viết bài kinh này lên lá bối. Đến thế kỷ thứ VII, ngài Huyền Trang đã cho khắc bản kinh tâm này vào đá ở tại chùa Bạch Mã, nơi ngài trụ trì.
22 Tháng Ba 2016(Xem: 6486)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực ở thành Xá Vệ và trở về, sau bữa thọ trai của mình, Tỳ-kheo-ni đi đến vườn cây của ông Cấp-Cô-Độc để nghỉ vào ban ngày. Khi vào sâu trong vườn cây Cấp-Cô-Độc, Tỳ-kheo-ni ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán.
02 Tháng Giêng 2016(Xem: 7621)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”. Trong kinh có sử dụng hình ảnh chiếc lưới để ví với sự mất tự do của một người khi bị vướng vào ái dục.
18 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 8939)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh là bài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông được nhiều người đọc thuộc, nhưng về ý nghĩa thì cũng có nhiều gút mắc vì kinh được tụng đọc bằng âm Việt nhưng phải hiểu theo nghĩa tiếng Hán. Nhân 3 tháng an cư Kiết Đông 2015 tại Tổ Đình Thiền Tánh Không, Perris, California, chúng tôi được giảng dạy và ôn tập lại bài kinh này và hôm nay có ý muốn ghi lại chia sẻ cùng các bạn có nhu cầu muốn nghiên cứu tìm hiểu.
29 Tháng Năm 2015(Xem: 8378)
Viên Giác là Chân Tâm thanh tịnh của chư Phật, của tất cả chúng sanh cùng toàn thể vũ trụ. Như thế tôi nghe, một thời Phật nhập chánh định thần thông Đại Quang Minh Tạng, là chỗ trụ trì quang nghiêm của tất cả Như lai, đó chính là giác địa thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Thân tâm tịch diệt, bình đẳng suốt ba đời, viên mãn khắp mười phương
22 Tháng Năm 2015(Xem: 14383)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật (tri kiến Phật).
16 Tháng Năm 2015(Xem: 12978)
Năm 2003, tôi cho ấn hành cuốn Nghĩ Từ Trái Tim, viết về Tâm Kinh. Thật ngạc nhiên, nhiều bạn đọc gần xa rất chia sẻ, có bạn lại mong có được bản dịch Anh ngữ để cho con em họ – thế hệ thứ hai – ở hải ngoại không rành tiếng Việt được đọc và hiểu Tâm Kinh Bát Nhã. Đến năm 2008, sau khi nghiền ngẫm, thực hành Kim Cang, tôi cho ra mắt cuốn Gươm Báu Trao Tay,