- Mục Lục Chi Tiết (Âm Thanh: Giọng Đọc Của Nguyên Hà)
- 01 Lời Mở Đầu
- 02 Phần Giới Thiệu
- 03 Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
- 12 Lục Độ Ba La Mật (Sáu Pháp Ba La Mật)
- 13 Tam Huệ Học Và Trí Tuệ
- 15 Kết Quả Của Sự Phá Chấp Pháp
- 16 Bát Nhã Là Điều Kiện Tối Yếu Để Thành Phật
- 20 Phần Tổng Luận Của Tâm Kinh
- 21 Chơn Đế Và Tục Đế
- 22 Thường Lạc Ngã Tịnh
- 23 A-lại-da Duyên Khởi / 24 Chân Như Duyên Khởi / 25 Lục Đại Duyên Khởi
- 26 Pháp Giới Duyên Khởi
- 28 Vài Nét Về Thiền
- 29 Y, Bát Của Phật
- 30 Thế Nào Là Ma Cảnh?
- 31 Tu Pháp Xa-ma-tha Tức Là Tu Chỉ Hoặc Gọi Là Tu Định / 32 Tu Pháp Tam-ma-bát-đề Tức Là Tu Quán Hay Là Tu Trí Tuệ. / 33 Tu Pháp Thiền Na
- 34 Lục Tổ Huệ Năng (The Sixth Patriarch Hui Neng)
- 35 Thuyết Nhị Nguyên Và Chân Lý Nhất Như
- 36 Bốn Chân Lý Tứ Diệu Đế. / 37 Sinh Diệt Tứ Diệu Đế / 38 Vô Sinh Tứ Diệu Đế / 39 Vô Lượng Tứ Diệu Đế / 40 Vô Tác Tứ Diệu Đế
- 41 Ngài Huyền Trang
- 42 Vài Nét Về Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh
- 43 Lời Kết
BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
21 CHƠN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ
Giáo lý Đức Phật có thể chia làm hai phần là Tục đế và Chân đế. Tất cả những tư tưởng triết học giúp chúng sinh nhận định về con người và vũ trụ đều gói ghém trong đó cả. Tục đế là pháp hữu vi còn chân đế tức là pháp vô vi.
1)Chơn đế: Nếu đứng về phương diện chơn đế mà nhận định thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật vì tất cả mê ngộ vốn Không, nhiễm tịnh đều bình đẳng. Chân đế là chân lý tuyệt đối và nó chính là tánh Không của tục đế.
2)Tục đế: là chân lý thế tục hoặc thực tại tương đối. Nó là tất cả những hiện tượng do duyên khởi tức là pháp sinh diệt trong thế gian nầy. Nếu đứng về phương diện tục đế thì căn cơ của chúng sinh không giống nhau vì thế sự tu chứng cũng có chậm có mau.
Thí dụ khi vào chùa chúng ta thấy một vị thầy tu đang gõ mỏ tụng kinh.
Nếu nói theo Tục đế thì chúng ta thấy một người tu hành ngồi nghiêm chỉnh, tay đang gõ mỏ và miệng thì tụng kinh rất nhip nhàng. Tục đế là sự diễn tả của “Tướng” tức là hình dáng của vật thể và “Dụng” là việc làm của họ trong thời điểm đó. Tướng là vị thầy tu và cái mỏ cùng cảnh chùa. Còn Dụng là gõ mỏ và tụng kinh.
Bây giờ lý luận theo Chơn đế. Chơn đế là nói về cái “Thể” tức là cái Không của vạn vật. Khi nói vị tu hành, cái mỏ hay cảnh chùa thì đây chỉ là cái tên để gọi vì chính vị tu hành chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn. Một khi đã do nhân duyên tạo thành thì vị tu hành nầy không thật Có tức là Không. Cái mỏ cũng vậy, nó là sự tổng hợp của cây gỗ và của những bàn tay khéo léo của người thợ. Vì là do duyên khởi nên cái mỏ cũng là Không tức không thật Có. Sau cùng gõ mỏ, tụng kinh cũng chỉ là cái tên để diễn tả cho hiện tượng biến chuyển của cái tay và cái miệng. Vì cái tay và cái miệng cũng đều do duyên khởi nên chúng không thật Có tức là Không. Vậy nếu nhìn từ khía cạnh Chân đế thì không thật có gõ mỏ, không thật có tụng kinh và không thật có vị tu hành cũng như không thật có chùa chiền chi hết. Vì tất cả là không thật Có tức là Không cho nên cái “Thể” tức là Chơn như luôn luôn thanh tịnh và bất biến.
Nhưng “Thể” , “Tướng” và “Dụng” không thể rời nhau được. Tại sao? Chẳng hạn như khi ra biển chúng ta thấy sóng nước nhấp nhô. Đợt sóng nầy qua thì đợt sóng khác lại đến. Nước biển là “Tướng” và làn sóng nhấp nhô là “Dụng” của nước. Còn tính yên lặng dưới lòng đại dương là “Thể” của nước vậy. Do đó Thể, Tướng và Dụng không thể rời nhau cũng như nước không rời sóng và sóng không rời nước được. Một thí dụ khác là đem nước lạnh, tức là Tướng của nước, nấu cho sôi. Khi nước đã bốc hơi thì chúng ta đâu còn thấy nước nữa tức là Không nhưng mà Thể của nước vẫn còn vì nước chỉ đổi từ thể lỏng sang thể hơi mà thôi chớ nước không bao giờ mất.
Vì Thể và Dụng không rời nhau nên đứng về phần Chơn đế mà nói thì tuy thanh tịnh bất biến mà vẫn tùy duyên sanh diệt. Còn đứng về phần Tục đế thì tuy tùy duyên sanh diệt mà vẫn như như bất biến. Như thế thì trong chân đế đã có mầm của tục đế và trong tục đế thì chân đế đã hiện hữu rồi.
Ngoài Tục đế và Chơn đế thì còn có trung đạo Đệ nhất nghĩa đế. Nếu các pháp duyên khởi mà có sắc tức hình tướng thì là Tục đế. Tuy các pháp đều do duyên sanh mà chính nó không có tự tánh có nghĩa là vô ngã tức là Không thì gọi là Chân đế. Còn Đệ nhất nghĩa đế là để chỉ cho Chơn tâm không có hình tướng nhưng có thể nhận biết nên nói: “không phải sắc không phải không”. Chẳng hạn như mặt gương, tất cả hình bóng hiện trong gương là Tục đế. Mặc dầu có hình tướng nhưng thể tánh lại Không nên gọi là Chơn đế. Nhưng thể của gương là thường sáng, chẳng phải hình tướng và cũng chẳng phải không thì gọi là đệ nhất nghĩa đế.
“Mỗi ngày làm việc gì, hãy làm cho rõ ràng, với tâm lúc nào cũng hướng về Phật. Như vậy thì lúc quét rác bạn cũng có thể ngộ Đạo, vì tâm bạn lúc ấy chính là đang quét bụi bặm của vô minh”.
“Thọ Giới chính là thọ sự nhẫn nhục. Khi tai bạn nghe người ta chửi rủa hay khiêu khích, chọc tức mình, mà bạn chẳng để tâm vào, thì đó chính là Giới”.
Gửi ý kiến của bạn