- Mục Lục Chi Tiết (Âm Thanh: Giọng Đọc Của Nguyên Hà)
- 01 Lời Mở Đầu
- 02 Phần Giới Thiệu
- 03 Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
- 12 Lục Độ Ba La Mật (Sáu Pháp Ba La Mật)
- 13 Tam Huệ Học Và Trí Tuệ
- 15 Kết Quả Của Sự Phá Chấp Pháp
- 16 Bát Nhã Là Điều Kiện Tối Yếu Để Thành Phật
- 20 Phần Tổng Luận Của Tâm Kinh
- 21 Chơn Đế Và Tục Đế
- 22 Thường Lạc Ngã Tịnh
- 23 A-lại-da Duyên Khởi / 24 Chân Như Duyên Khởi / 25 Lục Đại Duyên Khởi
- 26 Pháp Giới Duyên Khởi
- 28 Vài Nét Về Thiền
- 29 Y, Bát Của Phật
- 30 Thế Nào Là Ma Cảnh?
- 31 Tu Pháp Xa-ma-tha Tức Là Tu Chỉ Hoặc Gọi Là Tu Định / 32 Tu Pháp Tam-ma-bát-đề Tức Là Tu Quán Hay Là Tu Trí Tuệ. / 33 Tu Pháp Thiền Na
- 34 Lục Tổ Huệ Năng (The Sixth Patriarch Hui Neng)
- 35 Thuyết Nhị Nguyên Và Chân Lý Nhất Như
- 36 Bốn Chân Lý Tứ Diệu Đế. / 37 Sinh Diệt Tứ Diệu Đế / 38 Vô Sinh Tứ Diệu Đế / 39 Vô Lượng Tứ Diệu Đế / 40 Vô Tác Tứ Diệu Đế
- 41 Ngài Huyền Trang
- 42 Vài Nét Về Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật Kinh
- 43 Lời Kết
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng
16 Bát nhã là điều kiện tối yếu để thành Phật
Tâm Kinh dạy tiếp:”Tam thế chư Phật y bát nhã ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề” dịch là :”Chư Phật ba đời nhờ dựa vào bát nhã ba-la-mật tức là sự sáng suốt triệt để nên được sự giác ngộ chân chính vô thượng”. Tam thế chư Phật là chư Phật trong ba đời tức là quá khứ, hiện tại và vị lai.
A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề là vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là sự giác ngộ chân chính và cao tột hơn hết. Chữ Phạn là Anuttara-samyak-sambodhi.
Vậy câu Kinh nầy có nghĩa là trong quá khứ cũng như trong hiện tại và ngay cả trong tương lai, tất cả chư Phật mà được thành Phật tức là chứng được vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là đều nhờ vào cái sáng suốt triệt để ở nội tâm tức là bát nhã ba-la-mật-đa. Như thế thì bát nhã chính là điều kiện cần yếu cho sự thành Phật tức là bước cuối cùng của con đường giải thoát. Vì thế trong Kinh Đại Bát Nhã có câu:
“…Này Kiều Thi Ca, ta nay đã thành Phật mà còn tuân theo Bát nhã ba-la-mật-đa, ẩn náu và đứng vững nơi đấy, hà huống những kẻ muốn cầu vô thượng bồ đề mà không hết lòng quay về và nương tựa vào đó để tinh tấn tu học. Tại sao vậy? Vì nếu là người tu học theo hạnh Thanh văn, thì sẽ nhờ đó mà được quả A La Hán; nếu là người tu học theo hạnh Độc giác thì sẽ nhờ đó mà được Bồ đề Độc giác; nếu là người tu học theo hạnh Đại thừa thì sẽ nhờ đó mà được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề”.
Nhưng dựa theo bộ Luận Đại Trí-Độ thì A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chính là Bát nhã. Tại sao? Bởi vì nếu muốn được giác ngộ hoàn toàn, tới chỗ tột cùng thì người đó phải có một tâm hồn hoàn toàn thanh tịnh. Nhờ sự thanh tịnh nầy mà họ sẽ trở thành sáng suốt triệt để. Vì thế nếu đứng về phương diện sáng suốt thì nói “Bát nhã” còn đứng về phương diện tỉnh thức thì nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tuy hai phương diện mà của một nội tâm hoàn toàn thanh tịnh.
17 Tầm quan trọng của Bát nhã
Bây giờ Tâm Kinh dạy rằng:”Cố tri bát nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng chú, năng trừ nhất thế khổ, chân thực bất hư” có nghĩa là:”vậy nên biết: bát nhã ba-la-mật-đa là chú có thần hiệu lớn, là chú cao cả hơn tất cả các chú khác; chú ấy có công năng trừ tất cả sự khổ. Đây là sự thật không chút dối trá”.
Chú có nghĩa là Chân-ngôn. Phạn ngữ là Dharani tức là Đà-La-Ni. Kinh điển Phật giáo thường có hai phần:
Ø Phần nói ra được ý nghĩa của Kinh thì gọi là hiển thuyết.
Ø Phần chân ngôn tức là phần mật thuyết thì không phiên dịch mà để y chữ Phạn thì gọi là Chú. Vậy phần chót trong Tâm Kinh với câu:”Yêt đế, yết đế…” là chân ngôn hay là Chú.
Nhưng những chữ như đại thần chú, đại minh chú… vô đẳng chú không phải là câu chú như trong câu Yết đế mà chữ “chú” nầy chỉ dùng với một ý nghĩa để so sánh mà thôi. Vì thế “cố tri bát nhã ba-la-mạt-đa” tức là có cái sáng suốt triệt để ví như là một phép thần tức là chú thuật có công năng dẫn dắt chúng sinh đến chỗ đạo đức an lạc. Có sự khác biệt giữa chú bát nhã và chú của ngoại đạo. Chú của ngoại đạo có thể đem niềm vui cho con người trong nhất thời rồi cái buồn lại đến. Nhưng những cái vui nầy thường phải dùng những nghiệp bất thiện để đánh đổi khiến cho người hưởng được về sau phải đọa vào ba đường ác. Trái lại, “chú bát nhã” chẳng những không có các nguy hiểm đó và có thể giúp con người trừ được Tham-Sân-Si cùng mọi thứ nghiệp chướng mà nó còn trừ khử luôn cả những cố chấp trong con đường giải thoát giác ngộ như chấp có Niết bàn.
Vậy câu Kinh trên có ý nghĩa như sau:
1) Trí bát nhã có đại thần lực để phá trừ ma ngũ uẩn vì vậy nó được xem như một “đại thần chú”.
2) Trí bát nhã là ánh sáng làm tan sự mê muội chấp tướng do đó nó như là một thứ “chú” có năng lực làm phát sanh ánh sáng.
3) Trí bát nhã có thể dập tắt tất cả mọi vọng tưởng, mê lầm vì thế nó ví như là một thứ “chú” cao cả nhất, không có một thứ “chú” nào bằng.
4) Trí bát nhã là sự bình đẳng tuyệt đối bởi vì tất cả muôn loài, muôn vật đều có bản thể giống y hệt như nhau vì thế nó được ví như một thứ “chú” có thể sang bằng mọi đẳng cấp.
Thêm nữa chính Ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng giải thích chữ Đà-La-Ni rằng: “Đà-la-ni có nghĩa là “năng trì” tức là có công năng nắm giữ lại hoặc có nghĩa là “năng già” tức là có công năng che lấp”.
v Năng trì là nắm giữ tất cả những điều lành mà đã kết tập được không để cho chúng tan mất. Cũng như là một bình tốt đựng đầy nước không cho rĩ chảy ra ngoài.
v Năng già là năng che lấp không cho các rễ bất thiện sanh mầm niệm ác và cũng ngăn ngừa không cho mầm tội ác có cơ phát tác.
Vậy Ngài Long Thọ giải thích cho đoạn Kinh trên rằng:”vì bát nhã có công năng giúp người tu hành nắm giữ những điều lành đã kết tập và ngăn trở những điều dữ phát sanh thì Đà-la-ni là chú to lớn nhất, cao cả nhất và có hiệu lực lực nhất”.
Thật vậy, vì bát nhã có hiệu lực đưa người tu hành đến quả vị tột cùng là thành Phật mà thành Phật là đã trừ tất cả mọi thứ phiền não khổ đau cho nên Tâm Kinh mới có câu:”Năng trừ nhất thế khổ”.
Thế mà sợ có người cũng không tin lời quả quyết nầy nên Tâm Kinh còn nhấn mạnh là:”Chân thực bất hư” tức là đây là sự thật chân chánh không có một chút dối trá.
18 Tâm Kinh Kết Thúc Bằng Một Câu Chú:
“Cố thuyết bát nhã ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba- la tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha” dịch là:”Bởi lẽ vừa nói, nay xướng
lên câu chú bát nhã ba-la-mật-đa. Câu chú ấy là: Yết-đế, yết-đế, ba-la
yết- đế, ba- la tăng yết-đế, bồ-đề tát bà-ha”.
Câu chú nầy chính là phần Mật của Kinh.
Từ
xưa tới nay hễ là “chú” thì để nguyên phiên âm chữ Phạn mà đọc, không dịch ra nghĩa. Lý do là khi con người muốn giải thuyết thì lạc vào vòng
ngôn ngữ, mà một khi đã lạc vào vòng ngôn ngữ thì kẹt trong trí phân biệt. Như vậy là chúng ta đánh mất cái thấy đúng với sự thật.
Nhưng
một số học giả Đông Tây đã tận tâm nghiên cứu trong Phạn ngữ để tìm ra
một lối giải thích cho câu “chú” trên bằng bài kệ như sau:
Độ khứ, độ khứ,
Cứu kính độ khứ.
Cứu kính chúng độ khứ.
Giác ngộ tốc viên thành.
Dịch là:
Đi qua, đi qua,
Qua đến bờ bên kia.
Mọi người đồng qua đến bờ bên kia.
Nguyện sự giác ngộ chóng trọn thành.
Dựa
vào bản dịch trên thì bài “chú” ấy không có chi là bí mật cả mà chỉ là
lời khuyến khích lớn lao để giúp tất cả chúng sinh tinh tấn tu hành và
phát huy trí tuệ sáng suốt mà hoàn thành Phật đạo. Nếu mỗi chúng sinh cố gắng tu tập để cho tâm mình trở về với cái bản thể trong sạch của nó
thì sẽ được sáng suốt triệt để và giúp họ đến bờ bên kia là bờ giải thoát giác ngộ hoàn toàn. Mọi người ai cũng có thể đến bờ bên kia chỉ khác nhau là mau hay chậm mà thôi. Vì thế Phật đã khẳng định là:”Ngã dĩ thành Phật, nhữ đương thành Phật” tức là Ta là Phật đã thành còn các người là Phật sẽ thành là vậy.
“Toàn bộ Tam Tạng Kinh là ở trong tâm ta. Giới, Định, Tuệ cũng chỉ ở trong tâm nầy”.
“Kinh
giấu ở đâu? Kinh giấu ngay trong tâm chúng ta, nhưng cần khai mở trí tuệ thì mới biết được chúng. Nếu bạn không khai trí tuệ thì khi xem kinh
bạn sẽ mơ mơ hồ hồ. Còn khi trí tuệ khai mở, lúc xem kinh bạn sẽ cảm thấy rất thành thục, rành rẽ và lĩnh ngộ được những chân lý huyền diệu nầy”.
19 Bản dịch Tâm Kinh sau cùng
Sau phần phân tích tỉ mỉ từng câu của
Tâm Kinh ở trên. Bây giờ bộ kinh ngắn nhất của Đại thừa Phật giáo là Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh có thể được dịch lại một lần nữa để
chúng ta dễ dàng cảm nhận:
Sau khi đi sâu vào Trí tuệ Bát Nhã rồi, Ngài Quán Tự Tại thấy các Pháp đều là Không (Bát Nhã), nên không còn các khổ.
Ngài
gọi ông Xá Lợi Phất dạy rằng:”Này Xá Lợi Phất! Các Pháp chẳng khác với
Không (Bát Nhã), Không chẳng khác các Pháp; các Pháp tức là Không (Bát
Nhã), Không tức là các Pháp
Này Xá Lợi Phất! Tướng Không (Bát Nhã) là tánh của các Pháp. Nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Bởi thế nên trong tướng Không (Bát Nhã), không có các Pháp thế gian như: Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), Sáu căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý), Sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), Sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).
Và trong Bát
Nhã, cũng không có các Pháp xuất thế gian như: Tứ diệu đế (khổ, tập, diệt, đạo), Mười hai Nhân Duyên (không có vô minh và vô minh tận; không có lão tử và lão tử tận); không có “trí” tu chứng và đạo quả để chứng (đắc). Tóm lại, trong Bát Nhã không có cái gì cả.
Các vị
Bồ tát nhờ y theo Trí tuệ Bát Nhã (Tướng Không) mà xa lìa được các mộng tưởng điên đảo, nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng được đạo quả Niết bàn.
Các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều y theo trí tuệ Bát Nhã (Tướng Không) mà đạt được đạo quả vô thượng Bồ-đề.
Vì
trí tuệ Bát Nhã có khả năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên cũng gọi là Thần chú Bát Nhã, cũng gọi là chú Đại thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng.
Ngài Quán Tự Tại Bồ tát liền nói Thần chú Bát Nhã:
“Đi qua, đi qua, qua đến bờ bên kia, mọi người đồng qua đến bờ bên kia, nguyện sự giác ngộ chóng trọn thành”.
Thêm
nữa, ý nghĩa của Tâm Kinh thật là cao siêu và thâm diệu vì thế để chúng ta có một nhận định sâu sắc hơn chúng tôi cố gắng tổng luận ngỏ hầu giúp chúng ta có thể ghi nhớ những ý nghĩa huyền diệu của Tâm Kinh nầy.