Phụ Lục 2: Từ Vựng

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 10864)

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG

DIỆU CẢM

Phụ lục 2

TỪ VỰNG

 

A

 

A-la-hán : Quả vị cao nhất của bậc giác ngộ trong Phật giáo tiểu thừa. Đó là người đã sạch phiền não và ô nhiễm, không tạo nhân sinh tử.

 A-la-hán đạt « hữu vi niết bàn » - có nghĩa là còn mang quả sinh tử phát sinh từ nhân trong trong kiếp trước.

A-tăng-kỳ : Vô số. Thường dùng trong thành ngữ “a-tăng-kỳ kiếp”.

An trụ tâm : Đây là một vấn đề ngài Tu Bồ Đề hỏi Thế Tôn giữa Pháp hội: Làm thế nào để an trụ tâm?

 Lời giải đáp có thể nói là thu gọn trong câu:

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

(Nên sinh tâm ở nơi không chỗ trụ)

 Ấy là nói rằng tâm không được trụ ở tướng vậy.

 Về phương diện thực hành thiền định thì “an trụ tâm” có nghĩa là định tâm lăng xăng ở sát-na hiện tiền.

 Đối với bậc Thiền giả “thấy Tánh” thì “an trụ tâm” cốt ở “thường thường thấy Tánh”.

 

B

 

Ba thân : Tức là ba thân Phật, gồm: hóa thân, báo thân Pháp thân.

 . Phật hiển hiện trong sắc thân, “bằng xương bằng thịt”, trong những điều kiện không gian, thời gian và văn hóa xã hội nhất định thì gọi là “hóa thân Phật”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong nhân thân thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm là hóa thân Phật.

 . Những đức thánh thiện, đặc biệt là từ bi và trí huệ thị hiện ra ở dung quang, ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi, như rạng ngời ánh hào quang và lan tỏa sự bình an đến mọi người chung quanh. Hiện thể đó là “báo thân Phật”.

 . “Pháp thân Phật” có khi cũng được gọi là “Không”. Chữ “Không” nầy có phần có hàm ý nhận thức luận: ấy là chỉ có thể diễn đạt bằng cách phủ định. Phủ định bằng những từ kép có chữ “bất”, chẳng hạn như: “bất khả ngôn’, “bất khả thuyết”, “bất khả tư nghị” ( không thể nói, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn)

 Cách phủ định cũng được diễn đạt bằng những từ kép với chữ “vô”, chẳng hạn như “vô biên”, vô hạn”

Pháp thân Phật là vậy ! Là vô biên , vô hạn, là mênh mông! Pháp thân Phật là vậy ! Là cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ. Cũng là cái chiều kích mênh mông của tâm.

Cũng chính vì thế mà có thể thấy rằng cái chiều kích đó cũng là chiều kích của tự do, của giải thoát. Chiều kích vô hạn có tên là « Không » đó cũng có tên là « Tánh Không », hay đơn giản là « Tánh ». Cửa ngỏ của tự do và giải thoát ở ngay chỗ thấy cái « Không » đó – thường gọi là « thấy Tánh »

*

 Khái niệm « ba thân Phật” được diễn giải như trên có thể khơi lên ngộ nhận. Đặc biệt là ngộ nhận rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ là một “hóa thân”. Thực ra thì phải thấy rằng nơi Đức Phật có đủ cả ba thân Phật.

 - “Hóa thân”, đó là nhân thân của thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm, thuở ấy ai cũng có thể thấy, bằng “mắt thịt”.

 - “Báo thân”, đó là chỗ từ đó tỏa ra ánh sáng của từ bitrí huệ, hoặc là ánh sáng của tứ vô lượng tâm – từ, bi, hỉ, xả. Cũng có thể nói đó là chỗ người đương thời thấy hiện ra trong “ba mươi hai tướng tốt” “tám mươi vẻ đẹp”.

 - “Pháp thân”, đó là cái chiều kích mênh mông và ẩn nhiệm nơi Đức Phật, không thể dùng lời mà nói, không thể diễn giải và không thể nghĩ bàn. Dù vậy, chỗ ẩn nhiệm đó cũng hiện ra trong “Pháp” mà Đức Phật “thuyết”. “Pháp” ấy luôn được diễn giải bằng chữ “không”. Chẳng hạn như trong những câu:

 - Cái gọi là Phật Pháp đó không phải là Phật Pháp thật.

 - Bởi vì Như Lai nói: thân tướng tức không phải là thân tướng.

 Vậy có thể thấy rằng Phật Pháp vốn cùng Pháp thân không khác. Đều trỏ về cái chiều kích mênh mông, vô hạn của vũ trụ và cũng là của tâm.

Bát-nhã : tức là trí huệ. Đó là trí ở bậc cao, có khả năng « thấy Tánh » một cách trực tiếp, tức thì.

Bát-nhã ba-la-mật : cũng có nghĩa là trí bát-nhã, nhưng ở đây chỉ về cái dụng của trí bát-nhã là « độ » cho hành giả sang đến « bờ bên kia », tức là đến chỗ « thấy Tánh ».

Bát-nhã hạnh : tức là hạnh của hàng Bồ Tát. TổHuệ Năng từng nói rất rõ :

 « Nhất thiết xứ sở, nhất thiết thời trung, niệm niệm bất ngu, thường hành trí huệ, tức thị bát-nhã hạnh. »

 ( Bất kỳ là ở đâu, bất kỳ là lúc nào, từng giây từng phút không mê, thường thường có trí huệ, ấy là bát-nhã hạnh,)

Bồ Tát : chỉ về thánh vị của bậc có tu chứng, có đủ trí huệ và từ bi. Đặc điểm cơ bản của Bồ Tát là có hạnh nguyện « độ » tất cả chúng sinh mà không có chút ngã chấp – tức là « độ tất cả chúng sinh mà không thấy có chúng sinh nào được độ ». Nói cách khác là Bồ Tát không thấy có « năng độ » và « sở độ ».

 

C

 

Chân như : chỉ về thể Tánh đầu nguồn của vạn pháp. Chân như là « thể »,với tiềm năng vô hạn. Chân như là cội nguồn bất tuyệt của vạn pháp, là cái Một không tên, vô hạn, không thể diễn giải, không thể nghĩ bàn.

« Chân như » đồng nghĩa với « Pháp thân ».

 

Chấp : Đây là một khái niệm có vẻ đơn giản nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Ấy là bệnh của cái tâm khư khư bám chặt lấy cái gì đó xem như là chắc, là thực. Có hai dạng chấp : « chấp có » và « chấp không ».

 . «Chấp có » là khư khư khẳng định, khư khư bám lấy một vật/việc, hoặc một khái niệm nào đó. Thực chất của « chấp có » là « chấp tướng ». Tuy vậy, vì mọi tướng đều là hư vọng cho nên mọi « chấp có » đều là mê ! ngay cả « chấp kinh » !

  . «Chấp không » là phủ định tất cả! Chẳng hạn như lời một Thiền sinh nọ : « Tâm, Phật, loài hữu tình rốt ráo đều không có. Bản tánh của mọi hiện tượng là không... . »

 Hàng Bồ Tát thì vượt lên trên mọi khẳng định và phủ định., thấy rõ cái lý không phải có, cũng không phải không.

 

H

 

Hàng phục tâm : ấy là đưa cái tâm lăng xăng thường ngày trở về Bản Tâm thanh tịnh.

 Chẳng hạn như khi đại sư Huệ Năng bảo thượng tọa Huệ Minh :

 « Bình tức chư duyên, vật sinh nhất niệm... bất tư thiện, bất tư ác. »

 ( Ngoài không để ngoại vật lôi cuốn, trong không khởi ý gì...không nghĩ điều thiện ác.)

 Ấy là đại sư Huệ Năng dạy thượng tọa Huệ Minh hàng phục tâm vậy.

 Nói chung, việc thực hành thiền định là việc hàng phục tâm.

Hữu vi : chỉ về thế giới hiện tượngtrong đó vạn vật tương tác với nhau trong tiến trình thành, trụ, hoại, không. Nói cách khác thì đó là thế giới vô thường.

 « Hữu vi pháp » là những vật/việc trong thế giới đó. Cũng tức là « hiện tượng ». Bài kệ Lục Như, ở đoạn cuối kinh Kim Cang viết về « hữu vi pháp » :

Nhất thiết hữu vi pháp

 Như mộng huyễn báo ảnh,

Như lộ, diệc như điện,

 Ưng tác như thị quán.

 Ý chính của bài kệ là : thế giới hữu vi là nơi không có chỗ bám ( vô sở trụ). Người tỉnh ngộ thấy sự vật như-chúng-là, tức là thấy vạn sự vạn không có tự tính và luôn luôn biến chuyển trong dòng chảy sinh động, miên man bất tuyệt. Chúng giống như nước chảy, giống như mây trôi, có thể sử dụng chúng, có thể hân thưởng chúng ở ngay thời điểm chúng trình hiện ; chớ « chấp » chúng, chớ khởi ý muốn chúng diễn ra như ý mình.

 

L

Lục căn : Sáu căn, gồm : nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý _ tức là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm « căn » trước có thể xem như là năm cửa ở để tiếp xúc với ngoại giới. « Ý căn » thì có thể xem là một chức năng đặc biệt chuyển đổi những dữ kiện giác quan thành những tri giác.

Lục trần : Sáu trần là sáu đối tượng của sáu căn, gồm : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp _  tức là hình ảnh và màu sắc, âm thanh, mùi hương mà mũi ngữi thấy, vị mà lưỡi nếm thấy, cảm giác mà da và thân có thể cảm nhận được ; « pháp » chỉ về sự/vật như được cái trí tiếp nhận .  

Lục thức : Sáu thức  là sáu cách thấy biết khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Gồm có : nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức  ý thức.

 

N

 

Như Lai :

 « Như » tức là « Chân như », đồng nghĩa với « Pháp thân », hay « Thể tánh », thuộc « thể » vì thế mà « ẩn ».

 « Lai » có nghĩa là đến, chỉ về « dụng », do đó mà « hiện ».

 Vậy « Như Lai » là hiện thể của Chân như, dưới dạng một bậc thánh nhân phản ánh trung thực thể tánh Chân như.

 Ở Như Lai ba thân Phật đều viên mãn. Hóa thân tương đối dễ nhận thấy ; báo thân rất tinh tế ; Pháp thân thật huyền vi, ở bên trên tri kiến nhị biên của thế tục, cũng do đó mà không thể nói năng, diễn giải hay nghĩ bàn.

 

 

Niết bàn :

 Về « niết bàn » ta có thành ngữ « nhập niết bàn ». Thành ngữ đó có hàm ý niết bàn là một nơi, một cõi nào đó, có vị trí không gian.

 Thực ra niết bàn thuộc cảnh giới của tâm. Đó là « Bản Tâm thanh tịnh ».

 « Bản Tâm thanh tịnh » có hai đặc điểm cơ bản : tâm lăng xăng lặng xuống ; tâm tham chấp tan rã. Cũng do đó mà « thân tâm thường an lạc ».

 Chứng quả niết bàn là thực chứng « Bản Tâm/Bản Tánh thanh tịnh » đó. Cũng do đó mà bóng dáng của niết bàn có thể cảm nghiệm được trong khi thực hành thiền định sâu lắng. Khi đó thì cái « tâm viên ý mã » lặng xuống, cái tâm tham chấp tan rã, cái tâm an lạc khai mở. Cái dụng của tâm thiền định là như vậy. Trong thiền định ta chứng nghiệm cái « hiện tiền » ; thiền định không nhắm về một mục đích nào khác.

 Về niết bàn thường có sự phân biệt « hữu dư niết bàn » và « vô dư niết bàn ». Ở hữu dư niết bàn thì không còn sự tạo nghiệp trong hiện tại nhưng còn mang tích nghiệp quá khứ và nhận nghiệp quả đó. Ở vô dư niết bàn thì không còn có tạo nghiệp cũng không còn mang tích nghiệp.

 

P

 

Pháp : Chữ « Pháp » có nhiều cung bậc ý nghĩa :

(1) « Pháp » chỉ về đại luật vận hành của Nhất thể vũ trụ. Luật nầy huyền nhiệm, ẩn vi. Con người thuận theo thì được hanh thông, an lạc; ngược lại thì gặp lận đận, muộn phiền. Người xưa có câu : « Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong ». Chữ « thiên » nầy chính là « Pháp » vậy. Từ nghĩa nầy của « Pháp », ta có từ kép « Pháp giới »

(2) Từ nghĩa gốc trên, « Pháp » có nghĩa là « Phật Pháp », chỉ về những lời dạy của Đức Phật, hướng dẫn con người sống an lạc. Từ nghĩa nầy của « Pháp » ta có những từ kép như là : Pháp chiến, Pháp luân, Pháp môn, Pháp nhãn, Pháp tự,... .

(3) « Pháp » chỉ về các vật/việc xảy ra trong đời. Tất cả đều là những dạng của đại luật vũ trụ và qua đó người ta có thể thấy những bài học về Phật Pháp. Do đó mà có câu : «Tất cả các pháp đều là Phật Pháp.»

 Trong « Diệu cảm », để dễ phân biệt, tạm có quy ước : nghĩa (1) và (2) được viết là « Pháp » ; nghĩa (3) được viết là « pháp ».

 

T

 

Tam thiên đại thiên thế giới: Chỉ về cấu trúc vĩ đại của vũ trụ theo vũ trụ quan của Ấn Độ giáo và Phật giáo.

 

 

Tánh :

 (1)Trong ý nghĩa cơ bản nhất, “Tánh”, cũng gọi là “Thể Tánh”, hoặc“Tánh Không”, hay đơn giản là “Không”, chỉ về nguồn năng lượng đầu nguồn, ẩn vi, huyền nhiệm, cội nguồn của vạn sự, vạn vật, đồng thời tồn tại xuyên suốt trong các tiến trình biến hiện của vạn sự, vạn vật. Vạn sự, vạn vật biến hiện dưới vô cùng hình danh và sắc tướng được gọi chung là “tướng”. “Tướng” thông với “Tánh” theo cách ngọn ngành thông với nguồn cội, hiện thông với ẩn, hiển thông với vi. Vì thông như vậy nên cũng nói là Tánh tướng không-hai. Tánh vốn cũng có tên là Không; tướng cũng có tên là sắc. Gọi tên như vậy, Tâm Kinh nói về quan hệ “sắc-không”:

Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc;

Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc.

(Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc;

Sắc tức là Không, Không tức là sắc.)

 (2) Tánh cũng có tên là « Bản Tánh », là Phật Tánh » là « Bản Tâm », hoặc đơn giản là « Tâm ». Bản Tánh, hay Bản Tâm đó vốn tự nhiên thanh tịnh. Yêu cầu đặt ra cho hành giả là « thấy Tánh », tức là thấy cái « Bản Tánh thanh tịnh » đó. Tâm pháp cốt là thực hành thiền định mà tác dụng là làm tĩnh lặng cái tâm lăng xăng và nhiều tham chấp.

Thế Tôn : Danh hiệu tôn vinh Đức Phật, có nghĩa là đấng được thế gian tôn kính.

Tịnh độ : Cũng đọc là « Tịnh thổ », có nghĩa là nơi/đất thanh tịnh. Theo Phật giáo đại thừa thì mỗi vị Phật có một tịnh độ. Tịnh độ được nói đến nhiều nhất là « Tây Phương Tịnh Độ », hay « Tịnh Độ Di Đà », của Phật A Di Đà.

 Thực ra tịnh độ không phải là một nơi/cõi nào đó. Đó là Bản Tâm thanh tịnh. Do đó muốn « đến » Tây Phương Tịnh Độ thì chỉ cần niệm « lục tự Di Đà » _ « Nam Mô A Di Đà Phật »! Điều quan trọng là niệm với cái tâm thanh tịnh, buông xả mọi tư tưởng, mọi tham chấp. « Thấy » cái tâm thanh tịnh đó là « đến » Tây Phương Tịnh Độ vậy.

 Cơ bản thì là vậy. Thế nhưng trong thực tế tôn giáo thì cũng có điều dị nghị. Từ một truyền thống lâu đời, nhiều tín đồ thực hành pháp môn niệm Phật , tức là tín đồ Tịnh Độ tông, tin rằng mục đích của việc niệm Phật là để được « vãng sinh Tịnh Độ » sau khi lâm chung.

Tu-bồ-đề : Ấy là vị đại đệ tử hàng đầu trong mười vị đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Cũng có danh hiệu là Huệ Mạng,Thiện Hiện, hoặc Không Sinh. Ngài Tu-bồ-đề nổi tiếng thông tuệ về Tánh Không.

Tì kheo : danh gọi nam tu sĩ trong phái khất thực.

Tứ cú kệ : bài kệ có bốn câu. Trong kinh Kim Cang có hai bài tứ cú kệ ở các đoạn 25 và 32.

 

V

 

Vô thượng chánh đẳng chánh giác : Chỉ về trí huệ vô thượng của Phật.

Vô vi : tương phản với « hữu vi », « vô vi » chỉ về lĩnh vực không chịu sự chi phối của lý duyên sinh, không ở trong tiến trình sinh diệt, tức là chỉ về cái không sinh diệt.

 Kinh Kim Cang, đoạn 7, có từ « vô vi Pháp ». « Vô vi Pháp » có hai nghĩa thông nhau, xuất phát từ hai nghĩa của chữ »Pháp ».

  . « Vô vi Pháp » có nghĩa là thể và dụng huyền vi không thể nghĩ bàn của vũ trụ.

  . « Vô vi Pháp » cũng có nghĩa là tri kiến uyên thâm về vũ trụ, vốn không thể diễn tả thành lời, mà Đức Phật tạm dùng lời làm phương tiện để truyền đạt đến các đệ tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn