Chương Vii Phẩm Biến Hóa

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 16298)

KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ
Thích Nữ Trí Hải

Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà.
Chùa Tịnh Luật xuất bản PL. 2546


 QUYỂN SÁU

CHƯƠNG VII

PHẨM BIẾN HÓA

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai vì cớ gì thọ ký cho các bậc A La Hán rằng họ sẽ chứng Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác? Vì cớ gì mà nói rằng chúng sinh không chứng pháp Bát Niết Bàn cũng thành Phật? Lại cớ gì nói từ khi Như Lai mới thành Phật đến khi nhập Niết Bàn, trong thời gian đó Phật không nói một chữ nào? Lại nói Như Lai thường trú trong định không giác không quán? Lại nói các Phật sự đều là hóa tác. Lại nói các thức sát na biến hoại. Lại nói thần Kim Cang thường theo hộ vệ. Lại nói giới hạn đầu tiên (primary limit – tiền tế) không thể biết, nhưng có thể biết tịch diệt. Lại nói có ma và các việc (nghiệp) của ma? Lại nói có dư báo, nói chuyện người con gái Bà la môn tên Chiên Giá (Cancàmànavikà), người con gái ngoại đạo Tôn Đà Lợi (Sundarikà) cùng các chuyện (Phật) đi khất thực bát không trở về v.v.. Thế Tôn đã có những nghiệp chướng như vậy (Kàrmava- rana), làm sao thành được nhất thiết chủng trí (Sarvàkàranatà)? Nếu đã thành bậc nhất thiết chủng trí rồi, thì tại sao không lìa được những lỗi ấy?

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói. Đại Huệ ! Ta vì Niết Bàn vô dư nên mật khuyến các Bồ Tát cõi này và các cõi khác, những vị tu Bồ Tát hạnh mà lại cầu Niết Bàn Thanh Văn, mật khuyến họ xả bỏ tâm ấy siêng tu hạnh lớn. Lại biến ra hóa Phật và các Hóa Thanh Văn mà thọ ký từng người, không phải pháp tính Phật làm việc thọ ký ấy. Đại Huệ ! Phật và nhị thừa không khác, do ở điểm rằng Phật và Thanh Văn, Duyên Giác đều cùng có một vị giải thoát là đoạn các hoặc chướng, không phải trí chướng (Jneyàvarana). Trí chướng thì phải thấy pháp vô ngã mới được thanh tịnh. Phiền não chướng (klesàvarana) thì khi thấy nhân vô ngã, ý thức liền xả. Ban đầu phải đoạn tập khí trong tạng thức thì sự giải thoát khỏi pháp chướng mới được vĩnh viễn thanh tịnh. Đại Huệ ! Ta y nơi pháp thường trú mà nói mật ngữ này, vì không khác với chư Phật đời trước và đời sau, cũng nói pháp đầy đủ văn tự như thế. Đại Huệ ! Cái biết chân chính của Như Lai không có vọng niệm, không đợi tư lự suy nghĩ rồi mới nói, vì Như Lai từ lâu đã đoạn bốn tập khí, (kiến, dục, sắc, hữu – DG) lìa hai chết (phân đoạn tử và biến dị tử – DG), trừ hai chướng ngại (hoặc chướng và trí chướng – DG). Đại Huệ ! Ý (mạt na) và ý thức của năm thức căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân –DG), bảy thứ do tập khí làm nhân, ấy là tính sát na, không có vô lậu thiện và cũng không chịu luân hồi. Đại Huệ ! Như Lai tạng chính là nhân của sinh tử lưu chuyển và Niết Bàn, của khổ và lạc; kẻ ngu không biết quấy chấp là không. Đại Huệ ! Các đức Như Lai biến hóa mới thường được Kim Cang lực sĩ theo hộ vệ, chứ không phải các đức Phật chân thật. Như Lai chân thật vượt ngoài mọi giác quan và đo lường, nhị thừa ngoại đạo không biết được, an trú nơi pháp lạc hiện hữu và đã thành tựu trí nhẫn. Bởi thế không cần được Kim Cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả hóa Phật đều không do nghiệp sinh, không phải Phật cũng không phải phi Phật. Thí như thợ gốm hòa các thứ lại mà làm các đồ vật, hóa Phật cũng thế; đầy đủ các tướng hiện ra để diễn nói pháp, nhưng vẫn không thể nói được cảnh giới do Thánh Trí Tự Chứng mà có.

Lại nữa, Đại Huệ ! Các kẻ phàm ngu thấy sáu thức diệt mà chấp đoạn kiến, không hiểu rõ Tạng thức thì sinh chấp thường kiến. Đại Huệ ! Biên giới đầu tiên của vọng tâm phân biệt vốn không tự tính, bất khả đắc. Lìa phân biệt ấy liền được giải thoát, đoạn bốn thứ tập khí, lìa hết thảy lỗi lầm.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tam thừa cùng không thừa

Không có Phật Niết Bàn

Tất thọ ký thành Phật

Nói lìa các lỗi ác

Thành tựu trí cứu cánh

Cùng vô dư Niết Bàn

Để dụ kẻ hèn nhát

Theo mật ý kia nói

Trí sở đắc của Phật

Diễn nói đạo như thế

Ở đây không đâu khác

Nên Phật không Niết Bàn

Các kiến, dục, sắc, hữu

Bốn tập khí như thế

Ý thức từ đó sinh

Tạng, Mạt na ở đó

Thấy ý thức, năm thức

Vô thường nên chấp đoạn

Mê ý, Tạng chấp thường

Tà trí gọi Niết Bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
07 Tháng Mười Một 2023(Xem: 804)
27 Tháng Chín 2022(Xem: 82895)
Lúc đầu, kinh điển Phật giáo gồm hai bộ chính là “kinh” (sutra) và “luật” (vinaya): “Kinh” ghi lại giáo lý của Đức Phật, “Luật” là những giới luật mà Đức Phật đã chế định cho hàng tăng nhân tu hành tại các tự viện. Về sau này có thêm những lời chú giải về kinh và luật đó, và được gọi chung là “luận” (abhidharma), kết quả là có ba bộ sách gồm kinh, luật, và luận, tức là “Tam Tạng” (Tripitaka). Dần dần xuất hiện những dị biệt trong những lời giải thích về giáo lý của Đức Phật và giới luật của tự viện; và, điều đó gây ra sự phân rẽ trong cộng đồng Phật giáo, đưa tới sự phân chia thành hai bộ phái chính yếu đó là Thượng Tọa Bộ (Therevada) có tinh thần bảo thủ và Đại Chúng Bộ (mahasamghika) có tinh thần cấp tiến. Mỗi bộ phái có một bộ kinh điển riêng, được coi là chính thức bao gồm những quan điểm của mỗi phái.
16 Tháng Chín 2020(Xem: 5291)
20 Tháng Tám 2018(Xem: 7145)