2. Văn Kinh

26 Tháng Tư 201811:49(Xem: 4341)
KINH CHÚ TÂM VÀO HƠI THỞ
HOANG PHONG DỊCH VIỆT
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation 2018

BÀI KINH VỀ PHÉP CHÚ TÂM DỰA VÀO HƠI THỞ
Mindfulness of Breathing
Anapanasati Sutta
(Trung Bộ Kinh MN 118, PTS M iii 78)

 

Tôi từng được nghe như vầy, lúc bấy giờ Đấng Thế Tôn đang ngụ tại thị trấn Savatthi (Xá-vệ, kinh đô của xứ Kosala/Kiều-tát-la một trong sáu đô thị lớn nhất trong thung lũng sông Hằng vào thời đạicủa Đức Phật, ngày nay thuộc tiểu bang Uttar Pradesh), nơi khu vườn phía đông, tại trang viên của bà mẹ vị Migara (bà mẹ của vị Migara - Migaramata - là một cư sĩ dòng dõi hoàng tộc, rất nhiệt thành và gương mẫu, được Đức Phật xem là đứng hàng đầu trong Tăng Đoàn nữ giới. Bà sống đến 120 tuổi),cùng với các đại đệ tử kỳ cựu và nổi tiếng - chẳng hạn như ngài Sariputra/Xá-lợi-phất, ngài Maha-Moggallana/Ma-ha Mục-kiền-liên, ngài Maha-Kassapa/Ma-ha Ca-diếp, ngài Maha-Kaccana (xuất thân từ một gia đình quyền quý Bà-la-môn, từng đảm trách các nghi lễ của tôn giáo này trong triều đình của vua Candapajjota tại kinh đô Avanti. Vua Candapajjota nghe tin Đấng Thế Tôn đang ngụ tại Savatthi, bèn sai Maha Kaccana cùng với bảy vị khác đến đây để thỉnh Đấng Thế Tôn đến viếng kinh đô Avanti. Sau khi đến Savatthi và được nghe Đấng Thế Tôn thuyết giảng, tất cả tám người trong phái đoàn đều xin được làm đệ tử của Ngài), ngài Maha-Kotthica (một đại đệ tử của Đức Phật, rất uyên bác về luận lý học, trong Tăng Nhất Bộ Kinh, AN I, 24 có nói đến vị này), ngài Maha-Kappina (một đại đệ tử của Đức Phật đã đạt được cấp bậc Arahant/A-la-hán. Kinh Jataka/Bổn sanh kinh có nói đến vị đệ tử này), ngài Maha-Cunda/Ma-ha Thuần-đà, một đại đệ tử, em của Xá-lợi-Phất, nói đến trong nhiều bài kinh như Tăng Nhất Bộ Kinh AN 6.46, Tương Ưng Bộ Kinh, SN 1.5, v.v.., vị này không phải là người thợ kim hoàn hay thợ rèn (?) cũng mang tên Cunda/Thuần đà nói đến trong Kinh Đại-bát Niết-bàn), ngài Revata/Lý-bà-đa, em út của Xá-lợi-phất, một đại đệ tử của Đức Phật đã đạt được cấp bậc Arahant/A-la-hán), ngài Ananda/A-nan-đà, đệ tử hầu cận và phụ tá Đức Phật), cùng đông đảo các đệ tử lão thành và nổi tiếng khác (bài kinh thuật lại sự hiện diện của các đệ tử uyên bác và nổi tiếng trong Tăng Đoàn trong buổi thuyết giảng này của Đức Phật là có ý nêu lên tính cách xác thực của bài kinh. Trong lần kết tập thứ nhất tổ chức chín tháng sau khi Đức Phật tịch diệt, một số lớn các đệ tử trên đây đều có mặt như là các nhân chứng cho sự xác thực của bài kinh này, chỉ trừ hai vị Sariputra và Moggalana đã tịch diệt trước Đức Phật không lâu).

Vào  dịp này các tỳ-kheo lão thành đứng ra đảm trách việc giảng dạy và chỉ dẫn. Vài vị thuyết giảng và chỉ dẫn một nhóm khoảng mười tân tỳ-kheo; vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn một nhóm khác khoảng hai mươi tân tỳ-kheo; vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn một nhóm khác khoảng ba mươi tân tỳ-kheo; vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn một nhóm khác khoảng bốn mươi tân tỳ-kheo. Được các vị tỳ-kheo lão thành giảng dạy và chỉ dẫn, các tỳ-kheo mới gia nhập dần dần đạt được các cấp bậc nhận thức thật tuyệt vời (cách mô tả trên đây cho thấy bầu không khí giảng dạy và học hỏi rất hăng say giữa các tỳ-kheo kỳ cựu và các tỳ-kheo mới gia nhập Tăng Đoàn).

Cũng vào dịp này và cũng đúng vào ngày rằm Uposatha, tức ngày mười lăm trăng tròn, và cũng là ngày lễ Pavarana (Uposatha nguyên nghĩa là ngày "Rằm" và cũng là ngày quan trọng nhất trong tháng đối với Phật giáo vì là ngày Đức Phật đạt được Giác Ngộ. Trong mỗi tháng ngày trăng tròn Uposatha là ngày lễ, và lễ này có thể kéo dài từ một đến bốn ngày. Trong các ngày này người tu tập tại gia phải giảm bớt các công việc chân tay hầu để thì giờ chăm lo cho đời sống tinh thần, chẳng hạn như phải giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn, nếu nguyện giữ năm giới thì trong các ngày này phải giữ tám giới, và phải lên chùa lễ Phật. Người xuất gia nơi tu viện và chùa chiền - vào thời Đức Phật là các hang động hoặc các nơi tạm trú do ngưởi thế tục dựng lên giúp những người "từ bỏ" gia đình che mưa che nắng - thì phải làm lễ sám hối, nhằm tự cảnh giác và nhắc nhở nhau về việc giữ gìn giới luậtLễ sám hối thật ra chỉ là một buổi họpmọi người luân phiên xướng lên các giới luật và tự kiểm thảo, mỗi người phải ôn lại từng tư duy, xúc cảm, tác ýngôn từ và hành động của mình xem có phạm vào giới luật nào hay không? Trong năm thì mỗi ngày rằm đều mang một tên gọi riêng, và tên gọi này cũng được dùng để gọi mỗi tháng, hoặc để gọi các dịp lễ trùng hợp với các ngày rằm ấy. Thí dụ trong bản kinh trên đây có nói đến ngày rằm Pavarana, là ngày rằm cuối cùng đánh dấu ngày chấm dứt của mùa kiết hạ, nghĩa từ chương của chữ này là "Ước nguyện được viên mãn". Ngày rằm tiếp theo sau đó tức là của tháng thứ tư sau ba tháng kiết hạ là ngày rằm Komudi, trùng hợp với lễ Kathina còn gọi là lễ Dâng Y)Đấng Thế Tôn ngồi ngoài trời, vây quanh là Tăng Đoàn. Nhìn các tỳ-kheo đang yên lặng lắng nghe, Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

"Này các tỳ-kheo, Ta thật hài lòng với phép luyện tập này, Ta rất mãn nguyện từ trong thâm tâm về phép luyện tập này. Vậy các tỳ-kheo cũng nên kiên trì và hăng say mang ra thực hành, hầu thấu triệt những gì chưa thấu triệtđạt được những gì chưa đạt đượcthực hiện những gì chưa thực hiện được. Ta sẽ còn lưu lại thị trấn Savatthi này thêm một tháng đến ngày Rằm "Hoa sen trắng", tức là hết tháng thứ tư [sau ba tháng kiết hạ] của  mùa mưa này".  (Theo trong nguyên bản tiếng Pa-li thì Đức Phật nói như sau: “Ta sẽ lưu lại đến ngày lễ Komudi".  Chữ Komudi do chữ kumuda mà ra và có nghĩa là "hoa sen trắng", nhiều bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương gọi là tháng "hoa súng trắng/white waterlily", lý do có thể là vì người Tây Phương thường không phân biệt được giữa hoa súng và hoa sen. Ngày lễ Komudi cũng là ngày rằm của tháng "thứ tư" sau ba tháng kiết hạ, tức là tháng "thứ tư" sau ba tháng mùa mưa, khoảng tháng 10 hay 11 Dương Lịch. Trong bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì câu này được dịch như sau: "Ta sẽ ở đây, tại Savatthi cho đến tháng tư, lễ Komudi...". Bản dịch của thiền sư Thích Nhất Hạnh thì tóm lược câu này như sau: "Bây giờ đây, đã đến ngày trăng tròn tháng tư...". Cả hai câu dịch này không được chính xác, vì tháng tư chưa đến mùa mưa trong thung lũng sông Hằng, nơi này có khí hậu gió mùa tương tự như miền Nam Việt Nam, do đó không thể nào là sau mùa kiết hạ được. Tất cả các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương đã được tham khảo đều dịch là tháng thứ tưNgoài ra theo câu dịch của thiền sư Thích Nhất Hạnh thì Đức Phật cho biết "...đã đến ngày rằm tháng tư" có nghĩa là đã quá mùa kiết hạ một tháng. Thế nhưng Đức Phật nói lên câu trên đây vào dịp lễ Pavarana, và cũng là ngày rằm cuối cùng của mùa kiết hạ, là để thông báo với Tăng Đoàn là mình sẽ lưu lại Savatthi thêm một tháng sau ba tháng kiết hạQuyết định này của Đức Phật đã tạo ra một tiền lệ và sau đó đã trở thành một tục lệ là lễ Kathina còn gọi là lễ Dâng Y - sẽ giải thích thêm trong phần ghi chú dưới đây. Trong đoạn kinh trên đây Đức Phật cho biết về tầm quan trọng của bài kinh mà mình sẽ giảng và thông báo quyết định của mình sẽ lưu lại Savatthi thêm một tháng).

[Các bài kinh nguyên thủy là các bài giảng truyền khẩu, do đó thường mang tính cách liên tục, không ngắt ra từng phân đoạn, do đó rất khó theo dõi. Các dịch giả Tây Phương thường phân đoạn các bài kinh và đặt thêm các tiểu đề nhằm giúp người đọc dễ theo dõi hơn. Bản dịch dưới đây mượn cách phân đoạn và các tiểu đề trong các bản dịch của các nhà sư Bhikkhu Thanissaro, Bhikkhu Nanamoli và Bhikkhu Bodhi]

Đức PhậtTăng Đoàn

Các tỳ-kheo khắp nơi trong xứ sau khi nghe tin: 'Đấng Thế Tôn sẽ lưu lại Savatthi trọn tháng "Hoa sen trắng" (Komudi), có nghĩa là hết tháng thứ tư sau ba tháng mùa mưa', bèn rủ nhau kéo đến Savatthi để đích thân được gặp Đấng Thế Tôn. Các đệ tử lão thành (các đệ tử kỳ cựu và uyên bác thường xuyên bên cạnh Đức Phật cũng ở lại theo) lại tiếp tục thay nhau thuyết giảng và chỉ dẫn [cho các tỳ-kheo mới kéo đến], hăng say hơn cả trước đây. Vài vị trong số họ thuyết giảng và chỉ dẫn cho khoảng mười tỳ-kheo, vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn cho một nhóm khác khoảng hai mươi tỳ-kheo, vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn cho một nhóm khác khoảng ba mươi tỳ-kheo, vài vị khác thuyết giảng và chỉ dẫn cho một nhóm khác khoảng bốn mươi tỳ-kheo. Được các vị tỳ-kheo lão thành giảng dạy và chỉ dẫn các tỳ-kheo mới đến đạt được các cấp bậc nhận thức cao hơn trước.

Vào dịp này - tức ngày rằm Uposatha và cũng là ngày mười lăm trăng tròn trong tháng "Hoa sen trắng" (Komudi), tức là ngày rằm của tháng thứ tư sau ba tháng mùa mưa - Đấng Thế Tôn ngồi ngoài trời - vây quanh là Tăng Đoàn. Nhìn vào toàn thể Tăng Đoàn đang yên lặng lắng nghe, Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

"Này các tỳ-kheo, trong buổi họp này không được ba hoa những chuyện vô ích, phải loại bỏ những chuyện phù phiếmnhất thiết chỉ bàn thảo với nhau về những gì tinh khiết và cốt lõi (trong nguyên bản tiếng Pa-li là chữ "sara", có nghĩa là phần lõi rắn chắc, chẳng hạn như "lõi" của một "thân cây") mà thôi: một Tăng Đoàn như vậy mới đúng là một Tăng Đoàn, một buổi họp như vậy mới đúng là một buổi họp. Một Tăng Đoàn như vậy mới đúng là một món quà xứng đáng, một sự chăm lo xứng đáng, một sự hiến dâng xứng đáng, một sự kính trọng xứng đáng, đấy là cách tạo ra cho thế giới này một bầu không gian đạo đức không có gì sánh bằng: đấy chính là Tăng Đoàn trong buổi họp hôm nay.

Dù buổi họp chỉ là một món quà nhỏ bé, thế nhưng khi mang ra để hiến dâng thì nó sẽ trở thành to tát hơn, khi đã trở thành to lớn hơn thì nó sẽ còn tiếp tục trở thành to lớn hơn nữa: đấy chính là Tăng Đoàn trong buổi họp hôm nay. Một buổi họp như thế quả khó tìm thấy trên thế gian này: thế nhưng đấy cũng chính là buổi họp của Tăng Đoàn ngày hôm nay. Một buổi họp như thế quả hiếm hoi trong thế giới này, phải mang theo lương thực và ra đi nghìn dặm mới mong tìm thấy nó" (phải chăng vào thế kỷ thứ VII nhà sư Xuanzang/Huyền Trang phải lặn lội sang Ấn Độ, và sau đó vào các thế kỷ XVIII và XIX những người Tây Phương đóng tàu ra đi nghìn dặm để xâm chiếm thuộc địa, đã khám phá ra món quà vô giá lưu lại từ một buổi họp cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ? Dưới một góc nhìn khác thì những lời giảng trên đây phải chăng cũng là những lời báo trước của Đức Phật về sự trường tồn và lớn mạnh của Giáo Huấn của mình sau này, dù phải trải qua không biết bao nhiêu thử thách?).

Các cấp bậc giải thoát

Cấp bậc Arahant/A-la-hán

"Trong Tăng Đoàn này có những tỳ-kheo đã đạt được thể dạng Arahant/A-la-hán, những gì luân lưu trong tâm thức họ đã dừng lại, họ đã hoàn tất những gì cần phải làm, đã đặt cái gánh nặng ấy xuống, đã đạt được mục tiêu đích thật, đã cắt đứt được các mối dây xiềng xích của sự hình thành, đã đạt được sự giải thoát bằng sự nhận thức đúng đắn: đấy cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này.

Cấp bậc Anagami hay "Bất Lai" (còn gọi là A-na-hàm)

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo đã hoàn toàn loại bỏ được năm thứ gông cùm đầu tiên (tức là 5 nguyên nhân trói buộc sơ đẳng nhất: 1- tin vào cái ngã hay "cái tôi"/sakkaya-ditthi; 2- nghi ngờ, không nhận thấy được giá trị siêu việt của Đạo Pháp/vicikiccha; 3- tin tưởng và bám víu vào màu mè, lễ lạc/silabbata-paramata; 4- thèm khát dục tính/kama-raga; 5- thù ghét/vyapada), và họ sẽ được tái sinh[vào các cõi tinh khiết], không còn phải quay lại với thế giới này nữa: đấy cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này.

Cấp bậc Sakadagami hay "Chỉ còn quay lại thêm một lần" (Tư-đà-hoàn/Nhất lai)

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo đã hoàn toàn loại bỏ được ba thứ gông cùm [đầu tiên] (các tỳ-kheo ở cấp bậc Anagami/Bất lai nói đến trên đây đã loại bỏ được tất cả năm thứ gông cùm hay xiềng xích, trái lại trong cấp bậc kém hơn là Sakagami này - tức còn phải tái sinh thêm một lần nữa - thì người tỳ-kheo chỉ loại bỏ được ba thứ gông cùm đầu tiên: còn tin vào sự hiện hữu của cái tôi, chưa tin tưởng một cách vững chắc vào con đường Đạo Pháp, vẫn còn bám víu vào lễ lạc), tuy nhiên họ cũng đã làm giảm bớt được các sự thèm khát (bám víu), ghét bỏ và "ảo giác" (các ảo tưởng), nhờ đó dù họ có phải quay lại với thế giới này thì cũng chỉ thêm một lần, bởi vì [sau đó] họ sẽ hội đủ khả năng làm cho mọi thứ khổ đau phải chấm dứt: đây cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này.

Cấp bậc Sotapanna hay "Tu-đà-hoàn" (còn gọi là Nhập lưu)

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo đã hoàn toàn loại bỏ được ba thứ gông cùm [đầu tiên] (đã nói đến trên đây) đã bước vào dòng chảy (có nghĩa là đã ý thức được Đạo Pháp và đã hoàn toàn bước hẳn vào con đường tu tập), đã thật sự quyết tâm, họ sẽ không còn rơi vào những cảnh khổ đau và đã bắt đầu bước hẳn vào con đường đưa đến Giác Ngộ: đấy cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này. 

[Trên đây là bốn cấp bậc thành đạt mang lại từ việc tu tập, xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp, kinh sách Hán ngữ gọi là "tứ thánh quả". Tiếp theo dưới đây là các phương pháp và các đường hướng tu tập]

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo chăm lo luyện tập về bốn lãnh vực chú tâm (thân xác, cảm giáctâm thức, các hiện tượng tâm thần, kinh sách Hán ngữ gọi là "Tứ niệm xứ". Câu trên đây vô cùng quan trọng, cho thấy là "Bốn lãnh vực chú tâm" hay "Tứ niệm xứ" cũng chỉ là một phương tiện hay một phẩm tính trong số các phẩm tính khác, không phải là cứu cánh của toàn bộ việc tu tập, không nên hiểu rằng thực hiện được "bốn lãnh vực chú tâm" là đã giác ngộChú tâm hay "chánh niệm" chỉ là giai đoạn đầu tiên mà thôi)..., về bốn nỗ lực đúng đắn (1- cố gắng không làm phát sinh ra các tư duy xấu và vô ích trước khi chúng hiện lên với mình, 2- cố gắng loại bỏ các tư duy xấu và vô ích khi chúng chẳng may đã hiện lên với mình, 3- cố gắng khơi động các tư duy tốt và bổ ích khi chúng chưa hoàn toàn hiện lên với mình, 4- cố gắng duy trì các tư duy tốt và bổ ích khi chúng đã hiện lên với mình. Kinh sách Hán ngữ gọi khái niệm này là "Tứ chánh cần")..., về bốn nền tảng của sự thành công (1- quyết tâm, 2- nghị lực, 3- sự tập trung tâm thần, 4- sự nhận thức. Kinh sách Hán ngữ gọi là "Tứ như ý túc")..., về năm khả năng tâm thần (1- tin tưởng, 2- kiên trì, 3- cảnh giác, 4- giữ sự bình lặng trong tâm thức, 5- sự sáng suốt. Kinh sách Hán ngữ gọi là "Ngũ căn")..., về năm sức mạnh tâm thần (1- sức mạnh của sự tin tưởng, 2- sức mạnh của sự kiên trì, 3- sức mạnh của sự cảnh giác, 4- sức mạnh của sự bình lặng, 5- sức mạnh của sự sáng suốt. Kinh sách Hán ngữ gọi là "Ngũ lực")..., về bảy yếu tố của sự giác ngộ (1- tỉnh giác hay tỉnh thức, 2- học hỏi, 3- nỗ lực, 4- hân hoan, 5- thanh thản, 6- bình lặng, 7- buông xả. Kinh sách Hán ngữ gọi là "Thất giác chi")..., về con đường của tám sự đúng đắn (1- quan điểm đúng, 2- suy nghĩ đúng, 3- ngôn từ đúng, 4- hành động đúng, 5- phương tiện sinh sống đúng, 6- cố gắng đúng, 7- chú tâm đúng, 8- tập trung tâm thần đúng. Kinh sách Hán ngữ gọi là "Bát chánh đạo")...: đấy cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này.

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo chăm lo luyện tập về tình nhân ái..., lòng từ bi, niềm hân hoan [mang lại từ sự ý thức và kính trọng]..., sự bình thản (kinh sách Hán ngữ gọi chung bốn phẩm tính này là "Tứ vô lượng tâm")..., [sự nhận thức về] sự ô uế [của thân xác]..., [sự nhận thức về] vô thường: đấy cũng chính là các tỳ-kheo trong Tăng Đoàn này. 

[Đến đây bài kinh bắt đầu nêu lên phần chủ yếu là phép luyện tập về sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở

Sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra    

"Trong Tăng Đoàn này có các tỳ-kheo chuyên cần luyện tập về sự chú tâm tỉnh giác(mindfulness/"chánh niệm"dựa vào hơi thở vào và ra.

"Sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra nếu được phát huy và duy trì thường xuyên sẽ mang lại các kết quả to lớn và nhiều lợi ích. Sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra nếu được phát huy và duy trì thường xuyên sẽ giúp thực hiện được "Bốn lãnh vực chú tâm" (còn gọi là "Tứ niệm xứ" trong các kinh sách Hán ngữ, gồm: chú tâm vào thân xác, cảm giáctâm thức và các hiện tượng tâm thần. Khái niệm này được nêu lên trong bài kinh về "Sự chú tâm tỉnh giác"/Satipatthana Sutta, Trung Bộ Kinh MN.10) ở cấp bậc tột đỉnh. "Bốn lãnh vực chú tâm" nếu được phát huy và duy trì thường xuyên sẽ mang lại "Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ" (Thất giác chi/Bojjhanga) ở cấp bậc tột đỉnh. "Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ" nếu được phát huy và duy trì thường xuyên sẽ mang lại "Sự hiểu biết minh bạch" (Trí tuệ) và sự "Giải Thoát" ở cấp bậc tột đỉnh.

"Vậy phải làm thế nào để phát huy và duy trì sự chú tâm dựa vào hơi thở vào và ra, hầu mang lại "Bốn lãnh vực chú tâm" ở cấp bậc tột đỉnh?

"Đấy là trường hợp người tỳ-kheo tìm một nơi vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong một túp lều hoang phế, tréo chân ngồi xuống, giữ thân người thật thẳng, tập trung sự chú tâm vào phía trước mặt(tại sao lại phải tìm nơi yên tĩnh, tréo chân và ngồi yên? Chẳng qua là vì ngoại cảnh, thân xác và tâm thức luôn liên hệ với nhau, bối cảnh tĩnh mịch, thân xác bất động sẽ giúp cho tâm thức bớt xao lãng và tập trung dễ dàng hơn). Phát huy sự tỉnh giác mỗi khi hít vào, phát huy sự tỉnh giác mỗi khi thở ra.  

1- Khi hít vào dài thì người tỳ-kheo ý thức được: 'Tôi hít vào dài', khi thở ra dài thì cũng ý thức: 'Tôi thở ra dài'.

2- Khi hít vào ngắn thì người tỳ-kheo ý thức được: 'Tôi hít vào ngắn', khi thở ra ngắn thì cũng ý thức được: 'Tôi thở ra ngắn'. 

3- Người tỳ-kheo hít vào và tập nhận biết được hơi thở vào ấy trên toàn thân thể, và khi thở ra thì cũng tập nhận biết được hơi thở ra ấy trên toàn thân thể (hô hấp cũng được xem như là một hình thức cảm giác/feeling hay một "sự tạo tác của thân thể"/body fabrication, cảm giác hay sự tạo tác đó tạo ra một sự nhận biết hay cảm nhận trên thân thể).

4- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu làm lắng xuống các sự tạo tác trên thân thể' (chẳng hạn như ngứa ngáy, khó chịu v.v. là các sự tạo tác trên thân thểchú tâm thật tỉnh giác vào hơi thở sẽ làm giảm bớt các sự tạo tác đó), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu làm lắng xuống các sự tạo tác trên thân thể'.

5- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu cảm nhận được sự hân hoan' (rapture, phấn khởi, sung sướng), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu cảm nhận được sự hân hoan' (chẳng hạn như nhận thấy là mình đang "sống", đang trao đổi sự sống đó của mình với sự chuyển động của thiên nhiên và vũ trụ. Sự ý thức đó nói lên sự kính trọng và yêu quý sự sống của mình và của tất cả chúng sinhphản ảnh sự tương giao và tương kết giữa mình và vũ trụ, sự ý thức đó sẽ mang lại cho mình một niềm vui sướngthanh thản và thoải mái: hãy liên tưởng đến phẩm tính thứ hai trong số bốn phẩm tính của tâm thức - còn gọi là "Tứ vô lượng tâm" - là "sự hân hoan")

6- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu cảm nhận được sự thích thú' (pleasure/vui thích), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu cảm nhận được sự thích thú' (chẳng hạn như cảm nhận được sự êm ái và dễ chịu - mang lại một sự sảng khoái và sức sống qua sự trao đổi giữa các thứ ô nhiễm bên trong thân xác mình với không khí trong lành của vũ trụ chẳng hạn)

7- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu cảm nhận được các sự tạo tác tâm thần' (tức là các tư duy, xúc cảm, tác ý hiện lên trong tâm thức), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu cảm nhận được các sự tạo tác tâm thần'.

8- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu làm lắng xuống các sự tạo tác tâm thần', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu làm lắng xuống các sự tạo tác tâm thần' (chú tâm tỉnh giácvào hơi thở - "chánh niệm" - sẽ làm lắng xuống các tác động gây ra bởi các sự tạo tác tâm thần, tức là các tư duy, xúc cảm và tác ý đang khuấy động trong tâm thức mình)

9- Người tỳ-kheo tập hít vào và ý thức: 'Tôi hít vào hầu cảm nhận được tâm thức' (tức nhận biết được tâm thức mình đang hiện hữu và vận hành), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu cảm nhận được tâm thức'.

10- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu mang lại sự hài hòa (an bình) cho tâm thức', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu mang lại sự hài hòa cho tâm thức'.

11- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu mang lại sự vững vàng (bình thản, thăng bằng, không xao động và hoang mang) cho tâm thức', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu mang lại sự vững vàng cho tâm thức'.

12- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu buông xả tâm thức', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu buông xả tâm thức' (buông xả ở đây có nghĩa là không bám víu vào bất cứ tư duy, xúc cảm hay tác ý nào dấy lên bên trong tâm thức)

13- Nguời tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu chú tâm vào vô thường', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu chú tâm vào vô thường' (chữ "vô thường" là dịch từ chữ "anicca" trong bản kinh gốc tiếng Pa-li, nhà sư Thanissaro Bhikkhu dịch chữ này là "bất định"/inconstance, trong trường hợp này có thể hiểu là tính cách phù du và nhất thời của các tư duy, xúc cảm và tác ýchúng hiện lên, hiện hữu và biến mất bên trong tâm thức. Trong trường hợp nếu dịch chữ anicca là "vô thường" thì chữ này sẽ mang ý nghĩa bao quát hơn, tức là tính cách "bất định" không những chỉ liên hệ đến các tư duy, xúc cảm và tác ý bên trong tâm thức mà còn nêu lên tính cách phù du của tất cả các hiện tượng/dhamma bên ngoài tâm thức, tức môi trường chung quanh, trong đó kể cả thân xác, các cảm giác gây ra bởi sự tiếp xúc giữa các giác quan và các đối tượng cảm nhận của chúng).

14- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu chú tâm vào sự tỉnh ngộ', khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu chú tâm vào sự tỉnh ngộ' (tỉnh ngộ ở đây có nghĩa là thức tỉnh hay bừng tỉnh, tức là không còn thèm khát hay bám víu vào bất cứ gì nữa, bởi vì tất cả đều là vô thường; chữ tỉnh ngộ được dịch từ chữ "viraja" trong bản kinh gốc tiếng Pa-li, chữ này có nghĩa từ chương là "không dính bẩn". Nhà sư Thanissaro Bhikkhu dịch là dispassion/không thèm muốn hay thèm kháttuy nhiên ông cũng có ghi chú thêm trong hai dấu ngoặc cho biết chữ này có nghĩa từ chương là fading/phai mờ, phai nhạt. Theo một vài tự điển Pa-li khác được tra cứu thêm thì chữ này cũng có nghĩa là "không bị ô nhiễm hay vướng mắc bởi các sự thèm khát"/free from defilement or passion. Sở dĩ dài dòng là để nhắc nhở người hành thiền sau khi quán thấy được các đặc tính vô thường và bất định của mọi hiện tượng bên trong tâm thức, trên thân xác cũng như bên ngoài thế giới thì không nên chỉ dừng lại ở sự cảm nhận đó mà phải "tỉnh ngộ" hay "thức tỉnh" hầu buông bỏ chúng. Do đó không phải chỉ biết "chánh niệm" là đủ mà còn phải "tỉnh ngộ" và "buông bỏ").

15- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu chú tâm vào sự đình chỉ  ("nirodha"/cessation/sự chấm dứt hay dừng lại. Kinh sách Hán ngữ còn gọi là đoạn diệt), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu chú tâm vào sự đình chỉ'. 

16- Người tỳ-kheo hít vào và tập ý thức: 'Tôi hít vào hầu chú tâm vào sự buông bỏ (tức là buông ra, không nắm bắt bất cứ gì nữa cả, hoàn toàn buông bỏ), khi thở ra thì cũng tập ý thức: 'Tôi thở ra hầu chú tâm vào sự buông bỏ' (tóm lại: sau khi "chánh niệm" thì phải "giác ngộ" hay "bừng tỉnh", sau khi "giác ngộ" hay "bừng tỉnh" thì phải "buông bỏ", nếu không "buông bỏ" thì sẽ tiếp tục "luân hồi").

"Đấy là cách phát huy và duy trì thường xuyên sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra, hầu mang lại các kết quả thật to lớn và nhiều lợi ích.

[Đến đây bài kinh bắt đầu trình bày chi tiết hơn về các đối tượng của sự chú tâm tỉnh giác trên đây]

Bốn lãnh vực của sự chú tâm

Vậy phải làm thế nào để phát huy và duy trì thường xuyên sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thởvào và ra (anapanassati) hầu thực hiện "Bốn lãnh vực của sự chú tâm" (Satipatthana/"Tứ niệm xứ") ở cấp bậc tột đỉnh?

1- Dù đang trong hoàn cảnh nào, mỗi khi hít vào dài thì người tỳ-kheo ý thức: 'Tôi hít vào dài", mỗi khi thở ra dài thì cũng ý thức: 'Tôi thở ra dài', mỗi khi hít vào ngắn thì ý thức: 'Tôi hít vào ngắn', mỗi khi thở ra ngắn thì ý thức: 'Tôi thở ra ngắn'. Người tỳ-kheo tập ý thức: 'Tôi hít vào và thở ra hầu cảm nhận được sự hô hấp ấy trên toàn thân thể'. Người tỳ-kheo tập ý thức: 'Tôi hít vào và thở ra hầu làm lắng xuống các sự tạo tác tâm thần'. Trong những lúc luyện tập đó người tỳ-kheo luôn duy trì sự chú tâm hướng vào thân xác bên trong thân xác - hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự bám víu và lo buồn liên quan đến thế giới.

"Này các tỳ-kheo, Ta bảo với các tỳ-kheo rằng có thể xem sự kiện "hít vào và thở ra" ấy là một thể dạng thân xác tương tự như các thể dạng thân xác khác (hô hấp là một hình thức vận hành của thân xác, do đó cũng có thể đồng hóa nó với thân xác bên trong thân xác. Thân xác là "đối tượng" hay "lãnh vực" thứ nhất của phép luyện tập về sự chú tâm).

"Trong những lúc luyện tập đó người tỳ-kheo duy trì sự chú tâm vào thân xác bên trong thân xác (các cảm giác hiện lên trên thân xác - chẳng hạn như nóng lạnh, khó chịu, ngứa ngáy, mỏi mệt... dù là liên hệ với thân xác nhưng không phải là thân xác, chú tâm vào thân xác "bên trong thân xác" là cách giúp mình tách ra khỏi các cảm giác trên đây, dù chúng liên hệ đến thân xác nhưng không phải là thân xác, nói cách khác thì đây là một cách giúp cho thân xác trở nên "bất động" và "vô cảm") - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự bám víu và lo buồn liên quan đến thế giới.

"Này các tỳ-kheo, Ta bảo với các tỳ-kheo rằng sự kiện hít vào và thở ra đó cũng có thể xem là một thể dạng thân xác trong số các thể dạng thân xác khác, và đấy cũng là lý do tại sao người tỳ-kheo trong những lúc luyện tập ấy, phải duy trì sự chú tâm hướng vào thân xác từ bên trong thân xác - thật hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới.

2- "Dù đang trong hoàn cảnh nào, mỗi khi hít vào...hay thở ra..., thì ngưòi tỳ-kheo cũng đều cảm nhận được sự thích thú qua từng hơi thở; người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra... hầu mang lại cho tôi sự thích thú'; người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu cảm nhận được các sự tạo tác tâm thần'; người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu làm lắng xuống các sự tạo tác tâm thần'.

"Trong những lúc luyện tập đó người tỳ-kheo chú tâm vào các cảm giác (feelings, tức là các cảm giác hiện lên trên thân xác, và đây cũng là các đối tượng hay lãnh vực chú tâm thứ hai) bên trong các cảm giác - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới (có nghĩa là đặt sang một bên những gì liên quan giữa thân xác và thế giới, chẳng hạn như xinh đẹpxấu xígià nua, trẻ trung, mảnh mai, to béo, thấp lùn..., toàn thân xác chỉ còn lại những làn hơi thở mà thôi).

"Này các tỳ-kheo, Ta bảo với các tỳ-kheo rằng sự kiện "chú tâm thật tinh tường vào hơi thở vào và ra" ấy có thể xem là một cảm giác trong số các cảm giác khác (trong lãnh vực chú tâm thứ nhất trên đây tức là thân xác, Đức Phật cho biết "hít vào và thở ra" cũng là thân xác. Trong lãnh vực thứ hai tức là sự chú tâm vào cảm giác thì sự kiện "hít vào và thở ra" cũng là một hình thức cảm giáctương tự như các hình thức cảm giác khác), và đấy cũng là lý do tại sao người tỳ-kheo trong những lúc luyện tập ấy phải duy trì sự chú tâm vào các cảm giác bên trong các cảm giác - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới (chẳng hạn như đau đớn, khó chịu, bực bộinóng bức, thơm tho, ồn ào, êm dịu...,  các cảm giác chỉ đơn thuần là những làn hơi thở mà thôi).

3- "Dù đang trong hoàn cảnh nào, mỗi khi hít vào... hay thở ra..., thì người tỳ-kheo cũng đều ý thức: 'Tôi hít vào và thở ra hầu cảm nhận được tâm thức'; người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp cho tâm thức được hài hòa (bình lặng); người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu mang lại sự vững vàng (tĩnh lặng, thăng bằng, không xao động) cho tâm thức; người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp cho tâm thức buông xả' (giữ sự bình lặng và thanh thản, không bám víu vào các sự tạo tác tâm thần).   

"Trong những lúc luyện tập đó người tỳ-kheo chú tâm vào tâm thức bên trong tâm thức - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới.

"Này các tỳ-kheo, Ta không hề nói lên sự tập trung tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra lại có thể thực hiện được bởi một người có tâm thức hoang mang và thiếu tỉnh táo. Chính vì thế nên người tỳ-kheo trong những lúc luyện tập ấy phải chú tâm vào tâm thức bên trong tâm thức (có nghĩa là chú tâm vào thể dạng tinh khiết nhất và đơn sơ nhất của tâm thức hầu giúp mình thoát ra khỏi các thứ tư duy, xúc cảm và tác ý, gọi chung là các thứ tạo tác tâm thần. Tuy thuộc vào tâm thứchiện lên trong tâm thức, nhưng các thứ ấy không phải là tâm thức. Chúng chỉ đơn giản là các đối tượng cảm nhận của tâm thức, do đó có thể xem chúng chỉ là những gì gây "ô nhiễm" cho tâm thứcChú tâm vào những thứ ấy sẽ khiến tâm thức rơi vào tình trạng hoang mang và thiếu tỉnh thức mà thôi. Đuổi bắt những thứ ấy hoặc xem chúng là thật thì đấy là vô minh. Tất cả những thứ ấy là hậu quả phát sinh từ nghiệp tồn lưu trong tâm thức tác động với các sự cảm nhận của lục giác. Cái mớ hỗn độn đó gồm tư duy, xúc cảm và tác ý thường được đồng hóa với cái "ngã", "cái tôi" hay cái "linh hồn" của một cá thể) - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới (tất cả những sự tạotác tâm thần tuy hiện lên trong tâm thứctùy thuộc vào tâm thức, nhưng không phải là tâm thức; nếu "chú tâm thật sâu vào tâm thức bên trong tâm thức" thì người hành thiền sẽ chỉ còn cảm nhận được những làn hơi thở vào và ra mà thôi, tâm thức hóa thành chính sự hô hấp ấy).

4- "Dù đang trong hoàn cảnh nào, mỗi khi hít vào...hay thở ra..., thì người tỳ-kheo cũng ý thức: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp tôi chú tâm vào vô thường' (có nghĩa là ý thức được sự bất định của các thứ tư duy, xúc cảm và tác ý trong tâm thức và bản chất phù du của các hiện tượng trong thế giới); người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp tôi chú tâm vào sự tỉnh ngộ' (tỉnh ngộ khi nhận thấy sự bất định và phù du của mọi hiện tượng từ bên trong tâm thức cho đến bên ngoài thế giới);người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp tôi chú tâm vào sự đình chỉ' (dừng lại không còn bám víu vào những thứ phù du nữa); người tỳ-kheo luyện tập: 'Tôi hít vào... và thở ra..., hầu giúp tôi chú tâm vào sự buông bỏ' (tách rời mình ra khỏi thế giới hiện tượng, những gì còn lại liên kết mình với thế giới chỉ đơn giản là những làn hơi thở mà thôi).

"Trong những lúc luyện tập ấy người tỳ-kheo chú tâm vào các "hiện tượng tâm thần" bên trong các "hiện tượng tâm thần" - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới. Người tỳ kheo nhận biết thật tinh tường là phải buông bỏ mọi sự thèm khát và lo buồn, phải quán xét cẩn thận những thứ ấy với tất cả sự bình thản. Đấy là lý do tại sao người tỳ kheo trong những lúc luyện tập ấy phải duy trì sự chú tâm hướng vào các "hiện tượng tâm thần" bên trong các "hiện tượng tâm thần" - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới.

(Phân đoạn trên đây trong nguyên bản bằng tiếng Pa-li có một thuật ngữ khó thấu triệt là "dhammavicaya", nghĩa từ chương là "cách tiếp cận với các hiện tượng" - hậu ngữ vicaya có nghĩa là tiếp cận, phân tích, xét đoán/investigation, analysis, discrimination; tiền ngữ dhamma có nhiều nghĩa và trong trường hợp này thì có nghĩa là hiện tượng/phenomena. Kinh sách Hán ngữ dịch chữ này là "pháp"(), với nghĩa từ chương là luật phápquy tắcquy luật..., do đó không sao phản ảnh được ý nghĩa phức tạp và đa dạng của từ dhamma trong giáo lý Phật giáo. Trong các bản dịch bài kinh trên đây sang các ngôn ngữ Tây Phương, chữ dhammavicaya được dịch khá khác nhau: "hiện tượng tâm thần", "đối tượng tâm thần", "sự tiếp cận các đối tượng tâm thần"..., duy nhất chỉ có nhà sư Thanassaro Bhikkhu dịch là "các phẩm tính tâm thần"/"mental qualities. Thật vậy chữ dhamma cũng có nghĩa là "phẩm tính"/quality, và trong trường hợp này thì có thể hiểu là các phẩm tính mang lại sự sáng suốt cho tâm thức, chẳng hạn như sự chú tâm tỉnh giác hướng vào bốn lãnh vực thân xác, cảm giáctâm thức và các đối tượng cảm nhận của nó như: tứ niệm xứ, bốn sức mạnh tâm thần, bảy yếu tố của sự giác ngộ, bốn sự thật cao quý/ tứ diệu đế, v.v., Cách dịch chữ dhammavicaya là các "phẩm tính tâm thần" tuy mang ý nghĩa thu hẹp nhưng rõ ràng hơn so với chữ "hiện tượng" tâm thần. Dầu sao chữ này cũng là chữ khó xác định nhất trong bài kinh, và cũng đã được nêu lên trong một bài kinh khác là "Bài kinh về sự chú tâm tỉnh giác"/ Satipatthana Sutta/ "Kinh tứ niệm xứ", Trung Bộ Kinh, MN 10).    

"Đấy là cách cho thấy tại sao sự chú tâm tỉnh giác dựa vào hơi thở vào và ra, nếu được phát huy và duy trì thường xuyên lại có thể giúp quán nhận được "Bốn lãnh vực chú tâm" ("Tứ niệm xứ") ở cấp bậc tột đỉnh.

Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ (Thất giác chi)

"Vậy phải làm thế nào để phát huy và duy trì "Bốn lãnh vực của sự chú tâm" hầu mang lại "Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ"?

1- "Dù đang trong hoàn cảnh nào, người tỳ-kheo cũng phải giữ sự chú tâm hướng vào thân xác bên trong thân xác - với tất cả sự hăng say, tỉnh táo và sáng suốt - đặt sang một bên mọi sự thèm khát và lo buồn liên quan đến thế giới. Trong những lúc luyện tập đó "sự chú tâm tỉnh giác" (mindfulness/"chánh niệm") của người tỳ-kheo sẽ trở nên vững vàng, không một mảy may sơ hở. Khi nào "sự chú tâm tỉnh giác" của người tỳ-kheo đã trở nên vững vàng, không một mảy may sơ hở, thì "sự chú tâm tỉnh giác" đó với tư cách là một yếu tố giác ngộ cũng sẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người tỳ-kheo tiếp tục phát huy thêm, giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình (tức tạo ra cho mình yếu tố thứ nhất: "sự chú tâm tỉnh giác"/sati - kinh sách gốc Hán ngữ gọi yếu tố thứ nhất này là "chánh niệm")

2- "Người tỳ-kheo tiếp tục duy trì "sự chú tâm tỉnh giác" đúng theo cách đó sẽ giúp mình quán xét và phân tích phẩm tính ấy hầu mang lại cho mình một sự hiểu biết thật minh bạch về chính nó (tức là sự "chú tâm tỉnh giác" với tư cách là một yếu tố giác ngộ). Khi nào đã thực hiện được "sự chú tâm tỉnh giác" đúng theo cách đó giúp mình quán xét và phân tích phẩm tính ấy hầu mang lại cho mình một sự hiểu biết thật minh bạch về chính nó, thì khả năng "phân tích các phẩm tính" (trong bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu chữ này là analysis of quality) với tư cách là một yếu tố Giác Ngộ cũng sẽ bắt đầu được khơi động (nói một cách dễ hiểu hơn là khi nào phát huy được "sự chú tâm tỉnh giác" như là một "yếu tố giác ngộ" thì khi đó người tỳ-kheo cũng phát huy được khả năng quán thấy hay nhận biết được bản chất đích thật của mọi hiện tượng: chẳng hạn như vô thường và vô thực thể của chúng - hầu không bám víu vào chúng. Kinh sách gốc Hán ngữ gọi yếu tố giác ngộ này là "trạch pháp"!). Người tỳ-kheo tiếp tục phát huy thêm, giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình (không phải chỉ cần hiểu được hay cảm nhận được tính cách vô thường và vô thực thể của các hiện tượng là đủ mà còn phải hòa nhập chính mình với cái bản chất vô thường và vô thực thể đó của mọi hiện tượng).

3- "Đối với bất cứ ai khi đã quán xét, phân tích và đạt được một sự hiểu biết minh bạch về phẩm tính đó (tức là "phương pháp tiếp cận đúng đắn và thích nghi đối với mọi hiện tượng", tức yếu tố giác ngộ thứ hai: quán thấy được bản chất vô thường và vô thực thể của mọi hiện tượng) thì một "sự kiên trì không nao núng" (yếu tố giác ngộ thứ ba: tiếng Pa-li là viriya - kinh sách gốc Hán ngữ gọi là "tinh tiến") tất sẽ hiện lên với mình. Khi nào "sự kiên trì không nao núng" đã hiện lên với một người nào đó giúp mình quán xét và phân tích hầu thấu triệt thật minh bạch về phẩm tính ấy (tức yếu tố thứ ba: cách tiếp cận với các hiện tượng) thì sự "kiên trì không nao núng" với tư cách là một yếu tố giác ngộ cũng sẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người này tiếp tục phát huy thêm, giúp yếu tố ấy đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình.  

4- "Đối với bất cứ ai khi đã phát động được sự "kiên trì", thì một "niềm hân hoan tinh khiết" (tức là yếu tố giác ngộ thứ tư: "Piti-niramisa", chữ "piti" trong tiếng Pa-li có nghĩa là hân hoanvui sướng hay phấn khởi/joy, happiness, pleasure; chữ "niramisa" có nghĩa là không thuộc lãnh vực vật chất hay xác thịt/having no meat, free from sensual desires, non-material. Trong bản dịch của nhà sư Thanissaro Bhikkhu thì các chữ này là "rapture not-of-the-flesh", có nghĩa là "niềm vui sướng không thuộc lãnh vực xác thịt". Trong bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì các chữ này được dịch là "hỷ thọ" hoặc "lạc thọ", và trong bản dịch của thiền sư Thích Nhất Hạnh là "hỷ lạc" - thiết nghĩ các từ tiếng Hán này không phản ảnh được ý nghĩa của một niềm hân hoan sâu kín và phi vật chất của thuật ngữ piti-niramisa trong tiếng Pa-li. Sở dĩ dài dòng là để nói lên yếu tố giác ngộ thứ tư là một niềm vui sướng thật tinh khiết và sâu xa, tỏa rộng bên trong tâm thức và con tim của người hành thiền. Có thể xem niềm hân hoan phi vật chất đó là kết quả tiên khởi nhất mang lại từ phép hành thiền trước khi đạt được Giác Ngộ) sẽ hiện lên với mình. Khi nào "niềm hân hoan tinh khiết"/"hỷ lạc", "hỷ thọ" đó hiện lên với một người đã phát động được sự "kiên trì", thì "niềm hân hoan" với tư cách là một yếu tố giác ngộ cũng sẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người này tiếp tục phát huy thêm, giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình (niềm hân hoan sẽ ngày càng tỏa rộng và sâu xa hơn). 

5- "Đối với bất cứ ai khi niềm "hân hoan" (yếu tố thứ tư) đã hiện lên bên trong con tim mình, thì thân xác và tâm thức mình cũng sẽ lắng xuống (tức là tìm thấy được sự nhẹ nhõm trên thân xác và sự thanh thản trong tâm thức, có nghĩa là không có các cảm giác bất an nào phát sinh trên thân xác, cũng không có xúc cảm bấn loạn nào hiện ra trong tâm thức). Một khi người tỳ-kheo tìm thấy sự "hân hoan" giúp thân xác và tâm thức lắng xuống thì "sự thanh thản" (sự bình thản, thanh thoáttrong sáng, nhẹ nhàng/repose, serenity của tâm thức, tức yếu tố giác ngộ thứ năm, tiếng Pa-li là "passaddhi". Kinh sách Hán ngữ gọi là "khinh an") với tư cách là một yếu tố giác ngộ cũng sẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người tỳ-kheo tiếp tục phát huy thêm, giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình.

6- "Đối với bất cứ ai khi đã tạo được cho mình "sự thanh thản" (sự nhẹ nhàng và êm ả bên trong tâm thức) - và một thân xác thoải mái (tức yếu tố thứ năm: sự thanh thản và thanh thoát của thân xác và tâm thức) - thì khi đó tâm thức cũng sẽ trở nên tập trung hơn.  Khi một người nào đó đã tạo được cho mình "sự thanh thản" - với một thân xác thoải mái - thì tâm thức cũng sẽ trở nên tập trung hơn (có nghĩa là một tâm thức thật cô đọng/a concentrated mind, không bị xao động), và "sự tập trung" đó (một thể dạng tâm thức tĩnh lặng, trong sáng và lắng sâu hiện lên với người hành thiền, tiếng Pa-li gọi thể dạng này là "samadhi", và cũng là yếu tố giác ngộ thứ sáu, kinh sách gốc Hán ngữ gọi là "định") với tư cách là một yếu tố giác ngộ cũng sẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người này tiếp tục phát huy thêm giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình.

7- "Người này tiếp tục quán nhìn vào thể dạng tâm thức tập trung đó (tức yếu tố thứ sáu) với tất cả sự "bình lặng" (tức yếu tố giác ngộ thứ bảy, tiếng Pa-li là Upekkha, nguyên nghĩa là một sự "xả bỏ" hay "buông bỏ", tuy nhiên nên hiểu như là một thể dạng tâm thức hoàn toàn trong sáng và thăng bằng/equanimity trước mọi hiện tượng, không có một sự phân biệt hay xúc cảm nào có thể dấy lên được - kinh sách gốc Hán ngữ gọi là "xả"). Sau khi người này chăm chú quán nhìn vào tâm thức tập trung đó (yếu tố thứ sáu) với tất cả sự "bình lặng", thì chính sự "bình lặng" đó với tư cách là một yếu tố giác ngộsẽ bắt đầu hiện lên với mình. Người này tiếp tục phát huy thêm giúp nó đạt được thể dạng tột đỉnh bên trong chính mình.

[Cách trình bày trên đây về Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ sẽ được lập đi lập lại đối với ba lãnh vực chú tâm còn lại là: cảm giáctâm thức và các hiện tượng tâm thần. Các đoạn này đã đươc cắt bớt nhằm tránh sự dài dòng]

"Trên đây cho thấy phải làm thế nào để phát huy và duy trì thường xuyên "Bốn lãnh vực chú tâm" ("Tứ niệm xứ") hầu mang lại "Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ" (Thất giác chi) ở thể dạng tột đỉnh. 

Sự Hiểu Biết minh bạch và sự Giải Thoát

"Vậy phải làm thế nào để phát huy và duy trì "Bảy yếu tố của sự giác ngộ" hầu mang lại "Sự Hiểu Biết minh bạch" (tức là Trí Tuệ) và sự "Giải Thoát"?

"Đấy là trường hợp người tỳ-kheo phát huy được "sự chú tâm tỉnh giác" (mindfulness/ "chánh niệm": tức yếu tố thứ nhất) với tư cách là một yếu tố giác ngộ, nhờ biết sống xa lánh thế tục (trong nguyên bản bằng tiếng Pa-li là chữ viveka, có nghĩa là rút lui, ẩn cư, sống đơn độc nơi cô quạnh/detachment, loneliness), biết tỉnh ngộ (dispassion) và dừng lại (nirodha/ đình chỉ/cessation/), đấy là kết quả mang lại từ sự buông bỏ (buông xả).

"Đấy là trường hợp người tỳ-kheo "phân tích các hiện tượng" (tìm hiểu và ý thức được bản chất vô thường, khổ đau và vô thực thể của các hiện tượngyếu tố thứ hai) với tư cách là một yếu tố giác ngộ..., "sự kiên trì" (yếu tố thứ ba) với tư cách là một yếu tố giác ngộ..., "niềm hân hoan" (yếu tố thứ tư) với tư cách là một yếu tố giác ngộ..., "sự thanh thản" (thanh thoátthư tháiyếu tố thứ năm) với tư cách là một yếu tố giác ngộ..., "sự tập trung" (yếu tố thứ sáu) với tư cách là một yếu tố giác ngộ..., "sự bình lặng" (hay bình thản, trầm tĩnh, thăng bằng: yếu tố thứ bảy/equanimity, tiếng Pa-li là upekkha, kinh sách Hán ngữ gọi là "xả") với tư cách là một yếu tố giác ngộ, nhờ sống xa lánh thế tục, biết tỉnh ngộ và dừng lại, đấy là kết quả mang lại từ sự buông bỏ.

"Đấy là cách mà "Bảy yếu tố của sự Giác Ngộ" sau khi đã được phát huy và duy trì sẽ mang lại "sự Hiểu Biết minh bạch" (Trí tuệ) và "sự Giải Thoát" (chấm dứt khổ đau và các chu kỳ tái sinh) ở cấp bậc tột đỉnh.

Đấy là những gì mà Đấng Thế Tôn đã thuyết giảng. Các tỳ-kheo đều mãn nguyện và vui mừng trước những lời thuyết giảng ấy của Ngài.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn