Giới Thiệu Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta)

20 Tháng Tám 201100:00(Xem: 15506)

GIỚI THIỆU KINH ĐIỀM LÀNH
(Mangala Sutta)

Bình Anson

Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya). Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ. Ở đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt sơ lược nội dung bài kinh.

Evam me sutam:
Ekam samayam Bhagavā
Sāvatthiyam viharati Jetavane
Anāthapindikassa ārāme.
Tôi được nghe như vầy:
Một thời Đức Thế Tôn
Gần nơi thành Xá vệ,
Tại Kỳ viên tinh xá
Của ngài Cấp-Cô-Độc.
Atha kho aññatarā devatā
abhikkantāya rattiyā
abhikkantavannā
kevalakappam Jetavanam obhāsetvā
yena Bhagavā tenupasankami
upasankamitvā
Bhagavantam abhivādetvā
ekamantam atthāsi.
Vào hạ tuần canh đêm,
Vị thiên tử hiện ra,
Với hào quang rực rỡ,
Chiếu sáng cả Kỳ viên,
Đến nơi Đức Phật ngự,
Đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Rồi đứng sang một bên.
Ekamantam thitā kho sā devatā
Bhagavantam gāthāya ajjabhāsi:
Sau khi đã đứng yên,
Vị ấy bạch Thế Tôn,
Bằng lời kệ như sau:
Bahū devā manussā ca,
Mangalāni acintayum,
Ākankhamānā sotthānam,
Brūhi mangalam uttamam.
Chư thiên nhân thao thức,
Muốn biết về điềm lành,
Để sống đời an lạc,
Xin Thế Tôn chỉ dạy.
(Đức Phật trả lời:)
Asevanā ca bālānam,
Panditānañca sevanā,
Pūjā ca pūjanīyānam,
Etam mangalam uttamam.
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận người hiền trí,
Cúng dường bậc xứng đáng,
Là điềm lành tối thượng

Đầu tiên là 3 điềm lành: tránh xa kẻ ngu (bāla), thân cận người hiền trí, thiện tri thức (pandita), cúng dường (pūjā) những bậc xứng đáng để được cúng dường. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Người ngu ở đây là người không biết phân biệt thiện ác và có khuynh hướng theo các điều xấu ác. Bậc trí hiền là những người có đạo đức, tinh cần học và hành trong giáo pháp. Tôn kính và dâng tặng phẩm vật đến các bậc tôn túc, phẩm hạnh thanh cao là một điều quý nên làm.

Patirūpadesavāso ca,
Pubbe ca katapuññatā,
Attasammāpanidhi ca,
Etam mangalam uttamam.
Ở trú xứ thích hợp,
Quá khứ tạo nhân lành,
Hướng tâm theo lẽ chánh,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành:

- Trú xứ (desa) thích hợp (patirūpa) là những nơi có môi trường văn hóa xã hội tốt cho sự tu tập. Ở bầu thì dài, ở ống thì tròn. Chúng ta thường bị tác động bởi hoàn cảnh xã hội. Ở những nơi chỉ chuộng hình thức hào nhoáng bên ngoài, hưởng thụ vật chất, chạy theo nhu cầu dục lạc, lễ nghi rườm rà, chuộng các lời hoa mỹ rỗng tuếch thì cũng khó tu tập.

- Nếu trong quá khứ của đời này, hay trong các đời trước, đã tạo các công đức (katapuññatā), nay, quả phước lành sẽ được gặt hái trong hiện tại. Đây là một điềm lành. Bằng không, hãy nỗ lực làm việc thiện, để tạo nhân lành cho tương lai.

- Một điềm lành khác là tâm ta có định hướng chân chánh, đúng đắn (sammāpanidhi), hiệp theo lẽ đạo. Đây là điều quan trọng, phải có tác ý đúng.

Bāhu-saccañca sippañca,
Vinayo ca susikkhito,
Subhāsitā ca yā vācā,
Etam mangalam uttamam.
Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Giới luật biết tu tập,
Có những lời khéo nói,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành ở đây: được học và có nhiều hiểu biết (bāhu-saccam) , có nghề nghiệp tốt (sippam), biết hành trì các nguyên tắc giới luật đạo đức (vinayo), và biết dùng ngôn từ hòa ái, chân thật.

Mātāpitu upatthānam,
Puttadārassa sangaho,
Anākulā ca kammatā,
Etam mangalam uttamam.
Hiếu dưỡng mẹ và cha,
Biết nuôi nấng vợ con.
Việc làm không xung khắc,
Là điềm lành tối thượng

Có 3 điềm lành: phụng dưỡng cha mẹ (mātāpitu), nuôi nấng gia đình (puttadārassa), có công việc làm không gây xung đột (anākulā) với người khác.

Dānañca dhammacariyā ca,
Ñātakānañca sangaho,
Anavajjāni kammāni,
Etam mangalam uttamam.
Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp quyến thuộc họ hàng,
Hành xử không tỳ vết,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: có lòng bố thí rộng rãi (dānā), có phẩm hạnh trong sạch theo giáo pháp (dhammacariyā), biết giúp đỡ bà con họ hàng (ñātakā), có những hành động giao tiếp trong sạch, không bị chê trách (anavajjā).

Āratī viratī pāpā,
Majjapānā ca saññamo,
Appamādo ca dhammesu,
Etam mangalam uttamam.
Ghê sợ, tránh điều ác
Không nghiện ngập rượu chè,
Tinh tấn hành thiện pháp,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: biết ghê sợ (āratī) tội lỗi, biết tránh xa (viratī) tội lỗi (viratī pāpā), không rượu chè say sưa làm u mê (majjapānā), tinh tấn (appamādo) làm các điều lành, thiện pháp (dhammesu).

Gāravo ca nivāto ca,
Santutthī ca kataññutā,
Kālena dhammassavanam,
Etam mangalam uttamam.
Sống lễ độ, khiêm cung,
Tri túc và tri ân,
Đúng thời, nghe giảng Pháp,
Là điềm lành tối thượng.

Có 5 điềm lành: thái độ lễ phép có văn hóa (gāravo), tính khiêm hạ (nivāto), biết sống đủ, tri túc (santutthī), biết nhớ ơn, tri ân (kataññutā), và biết đến nghe Pháp (dhammassavanam) đúng thời, đúng lúc (kālena).

Khantī ca sovacassatā,
Samanānañca dassanam,
Kālena dhammasākacchā,
Etam mangalam uttamam.
Kham nhẫn, biết phục thiện,
Thường đến gặp Sa-môn,
Đúng thời, đàm luận Pháp,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: biết kiên nhẫn (khantī) và chịu đựng, biết phục thiện dễ dạy (sovacassatā), thường thân cận các bậc tu hành (samana), và đàm luận, trao đổi học Pháp (dhammasākacchā).

Tapo ca brahmacariyañca,
Ariyasaccāna dassanam,
Nibbāna sacchikiriyā ca,
Etam mangalam uttamam.
Tự chế, sống phạm hạnh,
Thấy chân lý nhiệm mầu.
Thực chứng quả Niết Bàn
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: sống tinh cần tự chế (tapo), sống đời sống phạm hạnh (brahmacariya), thẩm thấu chân lý nhiệm mầu (ariyasaccā) – tức là Tứ thánh đế, thực chứng Niết bàn (nibbāna sacchikiriyā).

Phutthassa lokadhammehi,
Cittam yassa na kampati,
Asokam virajam khemam,
Etam mangalam uttamam.
Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không sầu,
An nhiên, không uế não,
Là điềm lành tối thượng

Có 4 điềm lành: Tâm bất động, không lay chuyển khi bị gió đời hay pháp thế gian (lokadhamma) – khen chê, được mất, vinh nhục, buồn vui – thổi đến. Ba điềm lành khác: không còn sầu não (asoka), sống an nhiên (khema), không còn uế nhiễm (virajam).

Etādisāni katvāna,
Sabbatthamaparājitā,
Sabbattha sotthim gacchanti,
Tantesam mangalam uttaman’ti.
Ai sống được như thế,
Đến đâu không thối thất,
Đến đâu cũng an toàn,
Những điềm lành tối thượng.

Được như thế là đã nhập dòng thánh giải thoát. Khi ấy, cho dù sống trong dòng đời, đi đến đâu cũng không bao giờ bị tham sân si đánh bại (sabbattha aparājitā), đi đến đâu cũng bình an tự tại, an toàn (sabbattha sotthim gacchanti). Đó là điềm lành cao quý nhất.

*

Trong 11 câu kệ trên, Đức Phật đã đưa ra một bản hướng dẫn tổng quát cho người cư sĩ Phật tử, như là một cẩm nang tu học. Đầu tiên, người ấy phải biết tránh xa người ngu ác, chỉ biết chạy theo cám dỗ của ngũ dục. Phải biết thân cận bậc thiện tri thức để học hỏi, phải biết cung kính bậc tôn kính. Người ấy phải biết chọn nơi thích hợp để sinh sống, và biết tạo nhân lành để có phước báu tương lai. Phải biết hướng tâm theo đường chánh, học rộng và có tay nghề giỏi, có việc làm không gây tranh chấp, xung đột với người khác.

Trong gia đình, người ấy phải biết phụng dưỡng cha mẹ, nuôi nấng vợ con, giúp đỡ quyến thuộc. Người ấy phải có lòng bố thí rộng rãi, tinh tấn giữ giới, không nghiện ngập say sưa, biết ghê sợ và tránh xa các điều tội lỗi. Người ấy có những hành động thiện lành, không bị chê cười, có những lời nói khéo léo, hòa ái.

Trong tiến trình tu học, người ấy phải biết lễ độ, khiêm tốn, không cống cao ngã mạn. Phải biết sống tri túc và lúc nào cũng có lòng biết ơn những người đã giúp, đã chỉ dạy mình. Người ấy phải sẵn sàng nghe và sửa đổi tâm tánh mình. Lúc nào cũng tinh tấn học và hành theo giáo pháp, gần gũi các bậc tu hành có đức hạnh cao quý.

Sống tự chế, tỉnh giác, có giới đức tốt, người ấy nổ lực để thấu đạt và thực chứng chân lý nhiệm mầu – tức là Tứ Diệu Đế, để nhập dòng thánh giải thoát, chứng đắc Niết bàn. Nếu được như thế, người ấy sống an nhiên tự tại, không xao động bởi các pháp thế gian. Đi đến đâu cũng an vui, ở nơi nào cũng không bao giờ bị tham sân si áp chế. Đó là phước lành cao thượng nhất trên đời.

Theo lời ngài Hòa thượng Narada trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp":

Bài kinh nổi tiếng nầy, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phước đức trong bài đó là một hướng dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là "lánh xa kẻ xấu ác" vốn căn bản cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phước Đức đưa đến thành tựu một tâm ý vô tham, vô úy an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong bài kệ là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại.

Bình Anson
Perth, Tây Úc
tháng 08-2011

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Chín 2015(Xem: 5810)
Phương tiện thiện xảo phẩm, thuộc phần Tích Môn, tức là phần lý thuyết trình bày lý tưởng và lập trường tu học của người Phật tử, giải thích Tuệ giác vô thượng Phật đà là nhận thức và hoạt dụng bản chất tuyệt đối vắng lặng vào việc tự độ và độ tha, đồng thời minh định tuệ giác ấy là lý tưởng và mục tiêu duy nhất của con đường giác ngộ, mọi giáo thuyết mà chư Phật diễn giải đều là biểu hiện của Tuệ giác Phật đà và đó là phương tiện đưa chúng sanh đi vào tuệ giác ấy
27 Tháng Sáu 2015(Xem: 8605)
Bốn mươi sáu đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của Kinh Duy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
20 Tháng Sáu 2015(Xem: 5097)
Tánh Không, được giảng ở trong kinh Pháp ấn, là tính không có sở hữu, tính không có ấn tượng hư dối, không có sở sanh, không có sở diệt, thoát ly mọi tri kiến. Vì Tánh Không đó, không có xứ sở, không có sắc tướng, chẳng phải có ấn tượng, nó vốn không có sở sinh, không phải chỗ mà tri kiến có thể đạt đến được, ly khai mọi vướng mắc. Do ly khai mọi vướng mắc, nên hết thảy pháp nó đều dung nhiếp, mà an trú vào tri kiến bình đẳng, tri kiến đó được gọi là chân thực tri kiến
01 Tháng Sáu 2015(Xem: 4860)
Vajracchedikāprajñāpāramitā-Sūtra hay འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པ་རྡོ་རྗེ་གཅོད་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ là Pháp bản, là Pháp thoại diễn thuyết về Tuệ giác siêu việt, về trí tuệ chặt đứt mọi ấn tượng về ngã, về bổ-đặc-già-la, về chúng sinh, về thọ giả và sự khát ái. Tuệ giác đó nó kiên cố và bất hoại giống như như viên Kim cương, hay sắc bén như Kim Cương Chùy, có khả năng chặt đứt và đánh tan những vật cản chướng ngại khác trên lộ trình đi đến Tuệ giác tối thượng, thể nhập thể tính bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất lai, bất khứ, bất nhất và bất dị của Niết-bàn
28 Tháng Năm 2015(Xem: 4307)
Kinh Pháp Hoa Phạn bản, hiện có đầy đủ nhất tên tiếng Phạn là सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् Saddharmapuṇḍarīkasūtra được lưu trữ trong Buddhist Sanskrit Texts, do Kerne và Najo -Fumio dựa vào các Phạn bản cũng như các đoạn phiến tìm thấy ở các nước mà so sánh đối chiếu rồi biên tập thành.
25 Tháng Năm 2015(Xem: 4437)
Kinh Lăng-già (Saddharmalaṅkāvatārasūtram) là một bộ kinh quan trọng trong văn hệ Đại thừa Phật giáo; khát khao đọc được nguyên bản Kinh Lăng-già Phạn ngữ là niềm mơ ước của nhiều người con Phật trước đây, cũng như hiện tại. Sau khi làm việc với Năng đoạn Kim cương, dịch và chú giải cẩn trọng Phạn bản Devanagari và bản Anh ngữ của Ed. Conze hoàn tất, cước chú với nguồn tư liệu tham chiếu Phạn-Tạng-Anh-Hán. Chúng tôi bắt tay làm việc tiếp tục với bộ Lăng-già Phạn ngữ: Saddharmalaṅkāvatārasūtram, chúng tôi dâng trọn cả trái tim, đức tin, để cầu nguyện chư Phật soi sáng cho việc làm này, không đi quá xa với Thánh ý. Phước Nguyên
17 Tháng Chín 2014(Xem: 8843)
Đại tạng kinh là tập đại thành toàn bộ những giáo pháp do đức Phật giảng dạy mà chúng ta hiện còn được biết, được kết tập thành dạng văn bản qua nhiều nỗ lực của những thế hệ trước đây trong suốt chiều dài lịch sử hơn 25 thế kỷ qua. Tuy những lần kết tập đầu tiên chưa định hình văn bản, nhưng đó lại chính là nền tảng để những lần kết tập về sau có thể ghi chép lại Thánh giáo. Chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết về những lần kết tập kinh điển, vì đã có nhiều bài viết trình bày cặn kẽ được đăng lại trên trang này.
29 Tháng Giêng 2014(Xem: 8656)