13. Milarepa Nhập Diệt - Và Sau Đó

17 Tháng Chín 201200:00(Xem: 8072)

RECHUNG
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
MILAREPA
CON NGƯỜI SIÊU VIỆT
Nguyên tác Tây tạng: Mila Khabum - Tác giả: Rechung
Anh dịch: Lama Kazi Dawa-Samdup
Cô đọng và phóng tác: Lozang Jivaka
Việt dịch: Đỗ Đình Đồng

XIII

MILAREPA NHẬP DIỆT - VÀ SAU ĐÓ

 

Nếu đã thấy có những hiện tượng lạ thường trong những ngày cuối cùng của Milarepa, thì vào lúc bậc Đại Đạo sư nhập diệt, những hiện tượng tương tự lại tăng lên gấp đôi. Đẹp là nét chủ yếu: đẹp ở bề ngoài, đẹp ở âm thanh, đẹp ở hương thơm; những tán ca tán tụng tràn ngập hư không. Chư Thiên các Cõi Trên hiện thân rõ ràng đối với loài người, mang theo hiến vật đến tỏ lòng kính trọng lần cuối với khi bậc Thánh đã ra đi, và điều lạ lùng nhất là chư Thiên này đã xuống chung hội với những người trần thế đã tôn thờ bậc Đại Đạo sư.

Những người Nyanam, một thị trấn gần đó, khi nghe Milareap nhập diệt, họ đã đến xin các đệ tử đặc quyền xếp đặt thánh thể tại thành phố của họ. Nhưng lời yêu cầu này bị từ chối. Rồi họ xin hoãn lại cuộc hỏa táng cho đến khi họ đến Brin gọi tất cả những người theo ngài vẫn còn ở đó. Yêu cầu này được các đệ tử chấp nhận, nhưng khi họ trở về họ kéo theo đoàn người khỏe mạnh, định dùng sức mạnh để mang thi hài của Đạo sư đi. Nghe chừng như sẽ có một cảnh bạo động hỗn loạn xảy ra nên các đệ tử xen vào, cố gắng can thiệp để làm dịu bầu không khí sôi động:

“Hãy nghe đây, hỡi những người Nyanam và Brin! Tất cả những người đã tin theo Jetsun Milarepa và là những tín đồ của ngài. Vì ngài đã nhập diệt ở Chubar thì lễ hỏa táng thi hài của ngài chỉ được cử hành tại đây. Các người hãy ở lại đây cho đến khi hỏa táng xong, các người sẽ được tặng một phần xá lợi và thánh tích để thờ.”

Nhưng những người Nyanam nghĩ rằng họ có đủ sức mạnh và họ sắp sửa muốn dời thi hài đi, thì trên bầu trời một thiên thần hiện ra, với giọng nói của chính Milarepa, hát cho họ nghe một thánh ca bảo họ ngu xuẩn làm sao lại đi tranh giành với nhau một cái xác chết, và đó không phải là cách để họ lấy được thi hài, nhưng nếu họ thành tín cầu nguyện thì tất cả sẽ được thánh tích.

Giọng hát của bậc Thầy kính yêu vang lên khiến cho tất cả mọi tín đồ trở nên im lặng, họ chú ý lắng nghe những lời dạy của ngài và họ đổi ý từ bạo động sang cầu nguyện. Những người Nyanam và Brin dã thấy một phép lạ: mỗi người trong bọn họ dường như đều nhận được một thi hài của Milarepa trong khi thi hài thật vẫn nằm ở Chubar. Vì thế, họ rất thỏa mãn, mỗi thị trấn tổ chức một lễ hỏa táng riêng trong thị trấn của họ.

Dĩ nhiên các đệ tử trưởng tràng ở Chubar ngày đêm cầu nguyện bên cạnh chiếc đòn đám ma trong khi thi hài càng lúc càng thu nhỏ lại và phóng ra một vầng hào quang sáng ngời. Khi thi hài thu nhỏ lại chỉ còn bằng xác của một đứa bé tám tuổi, các đệ tử, những người đang chờ tôi đến, vì Thầy đã cấm họ, bây giờ nói với nhau:

“Không có gì chứng tỏ rằng sư huynh Rechung sắp đến cả. Nếu chúng ta còn chờ lâu hơn nữa sẽ không còn gì để hỏa táng, và rồi chúng ta sẽ không có thánh tích để thờ. Tốt nhất chúng ta hãy tiến hành hỏa táng ngay bây giờ.”

Lời nói này được tất cả đồng ý, vì thế thi hài được di chuyển đến tảng đá mòn to lớn mà Thầy chúng tôi thường giảng dạy ở đó.

Giàn hỏa được dựng lên trên tảng đá ấy, và mọi người đến lễ bái lần cuối. Nhưng không có mồi lửa nào đốt cháy được giàn hỏa. Sau bao nhiêu lần cố gắng đều thất bại, một nhóm năm thiên nữ (Dakini) hiện ra trên bầu trời và bắt đầu hát cho các đệ tử đang sầu buồn nghe, và họ ngước mắt nhìn lên đầy kinh ngạc.

 

“Rom!”* Ngọn lửa thần của Sinh Khí

đã từng được ngài chiêm nghiệm.

Lửa có năng lực gì đốt được một người như thế?

Khi một người đã thiền định suốt đời

 thì cần gì để lại thân xác phía sau?

Ngài đã vượt lên trên tất cả những xếp đặt tang chế của các anh

Và có thể miễn trừ những điều đó.

Thiên chư thiên đang cử hành lễ mừng,

Thì cần gì nghi lễ của các anh?

Thi hài của bậc đã Giác ngộ không cần nghi thức ước lệ thế gian.

Vì thế tốt hơn, hãy tôn thờ và cầu nguyện,

Đừng trịnh trọng bảo rằng thi hài đó là “của tôi” hay “của anh.”

Về các Giáo lý Bí mật, hãy im lặng, tìm cô tịch,

Rồi các anh sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng,

do sự nhập diệt của Thầy ban cho, đừng bao giờ sợ hãi!

Hãy chú tâm vào những chỉ dẫn cuối cùng của Jetsun,**

đừng trái nghịch,

Rồi phúc lành sẽ đến với tất cả các anh.

 

Đó chính là lời các thiên nữ hát và Ngan Dzong nói:“Điều này xác định mệnh lệnh của Thầy chúng ta. Chúng ta không được hỏa táng thi hài của Thầy trước khi sư huynh Rechung đến đây. Nhưng chẳng có gì chứng tỏ rằng sư huynh Rechung sắp đến. Thi hài đang tan đi một cách nhanh chóng và nó sẽ hoàn toàn biến mất nếu chúng ta hoãn cuộc hỏa táng, rồi chúng ta sẽ không có xá lợi để thờ.”

Lúc ấy Shiwa-Wod Repa nói:

“Mệnh lệnh của Thầy, lời hát của thiên nữ, và giàn hỏa không cháy, tất cả chứng tỏ cùng một ý nghĩa. Chắc sư huynh Rechung sẽ đến sớm. Như thế chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện.” Và họ tiếp tục cầu nguyện.

Vào lúc ấy tôi đang ở tại một tu viện Chubar cách khá xa. Và một đêm nọ tôi thấy một bảo tháp đang được người và thần thờ phượng, và chung quanh chung quanh có nhiều đệ tử của Thầy tôi. Rồi tôi thấy Đạo sư của tôi từ bảo tháp nghiêng mình ra bảo tôi rằng ông rất vui mừng khi gặp lại tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau và ông vuốt tóc tôi. Tôi cảm thấy tất cả tình thương to lớn của tôi hướng về ông, và tôi thức giấc.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là: “Đạo sư của ta có thể chết được sao?” và cùng với ý nghĩ này, lòng tôi muốn gặp lại Thầy tôi vô cùng, vì thế tôi bắt đầu đi tìm ông. Khi tôi khởi hành, dường như có một vị thiên nữ đến bảo tôi: “Này thầy Rechung, hãy nhanh lên! Nếu không, thầy sẽ không thấy được Đạo sư của thầy còn sống nữa. Hãy đi ngay đi!”

Điều này thúc giục tôi cố gắng nhiều hơn. Bằng phép đề khí và kiểm soát tinh thần vào lúc bình minh, tôi đã hoàn thành cuộc hành trình trong khoảng vài tiếng đồng hồ, nhưng nếu đi bằng vận tốc của lừa, phải mất hai tháng. Tạm dừng lại trên một đỉnh núi để nghỉ, tôi lại thấy một cảnh khác. Một đám đông các thiên nữ và các bậc cõi trên, tất cả đang đi cùng một hướng, mang theo nhiều lễ vật. Tôi hỏi họ đang đi đâu và lòng tôi đầy lo âu.

Một vị thiên nữ đáp:

“Anh có đui và điếc không mà không nghe thấy những biến cố gần đây? Anh không biết việc gì đang xảy ra hay sao? Tất cả những dấu hiệu trên trời này là để ghi dấu cuộc di hành của Jetsun Milarepa đến các Cõi Thánh thiện hơn. Vì thế tất cả những ai tôn vinh Chánh Pháp đều đến đảnh lễ ngài, trong khi những người ở trần giới đang tụ hội ở Chubar cũng cùng mục đích này.”

Tim tôi dường như rạn vỡ khi nghe tin này. Tôi hối hả vận dụng hết tốc lực khinh công bay đi và khi gần đến Chubar, tôi nhìn thấy Đạo sư của tôi ngồi trên một tảng đá mòn. Ông chào mừng tôi nồng nhiệt và vuốt đầu tôi như tôi đã từng thấy trong ảo cảnh. Tôi quá vui mừng vì thấy Thầy tôi không chết. Sau cùng tôi cúi đầu thật thấp hành lễ với ông. Rồi tôi hỏi ông nhiều câu và ông đáp lại tất cả. Cuối cùng ông nói:

“Này Rechung, con hãy thong thả mà đi, thầy phải đi trước để sắp đặt mọi việc cho con.” Rồi ông biến mất khỏi tầm mắt tôi.

Bấy giờ khi đến Chubar, dĩ nhiên không thấy dấu hiệu nào của ông cả, nhưng chung quanh cốc của ông có nhiều đệ tử và tín đồ đang bi thương, quì lạy. Và tức khắc tôi biết việc gì đã xảy ra.

Không may một số đệ tử nhập môn sau này không biết mặt tôi nên họ từ chối không cho tôi đến gần thi hài ông. Vì thế tôi tôi buồn vô hạn, và tôi hát một tán ca dâng lên Đạo sư tôi để bày tỏ nỗi thống khổ trong lòng. Tôi bắt đầu tán ca diễn tả lòng sùng kính rồi kêu gọi ông cho mọi người biết tôi là đệ tử ưu ái của ông. Tôi khẩn cầu ông cho tôi thấy mặt ông một lần nữa và được nghe giọng nói chứa đầy Trí tuệ và sự Chỉ dạy Thần diệu của ông. Mặc dù tôi không xứng đáng gì, tôi vẫn cầu mong ông hãy từ bi với tôi.

Tôi hát bài tán ca này với tất cả cảm xúc của trái tim tan vỡ, màu sắc thi hài Milarepa đã phai nhạt, bỗng nhiên trở nên rực rỡ và giàn hỏa bắt lửa khiến cho cây gỗ bùng cháy rạng ngời. Ngay lúc đó, Shiwa Wod, Ngan Dzong và Seban Repa, mấy người bạn đồng thời của tôi đến chào mừng tôi, nhưng lòng tôi vẫn đau nhói vì nỗi buồn do các đệ tử trẻ gây ra.

Bấy giờ niềm tin và lòng chân thành của tôi quá to lớn đến nỗi dường như làm cho thi hài của ông sống lại, ngồi bật dậy giữa ngọn lửa và nói như thế này:

“Ồ các con, những đệ tử trẻ tuổi của ta, đừng hành xử như thế, một con sư tử vẫn hơn một trăm con cọp. Và con sư tử đó là Rechung, con trai ta. Hãy để nó đến đây. Và Rechung, con đừng quá buồn vì việc đó và hãy đến đây với Cha.”

Mọi người đều giật mình vì chuyện này, như người ta có thể tưởng tượng. Rồi họ tràn ngập niềm vui và tôi nhảy đến sờ vào người Đạo sư yêu mến của tôi với nước mắt tuôn trào trên má. Tôi quá yếu ớt vì xúc động đến nỗi không lau được nước mắt. Khi tôi đến đó, tất cả các đệ tử đã ngồi chung quanh giàn hỏa, trong khi Jetsun Milarepa chổi dậy trong Thần thể và mọi người đều thấy rõ ràng rằng ông toàn thân ngồi giữa những ngọn lửa và tựa như ngự trên một đóa hoa sen, với một đầu gối xếp lại và bàn tay phải chìa ra trong thái độ giảng dạy ưa thích, ông nói:

“Hãy lắng nghe những lời cuối cùng của một ông già và giáo lý tối hậu của ta. Hỡi Rechung, con ta, con là người thân yêu nhất của ta, hãy lắng nghe tán ca này, và hãy chú ý đến những giới luật của ta:

 Hãy canh chừng thể xác,

 sự thực nó là một tội nhân,

 luôn luôn đòi thức ăn và quần áo,

 nó không tìm được nơi ẩn náu tránh được phiền não thế gian.

 Trong thế giới tinh thần, tên tội nhân là tâm hiện tượng,

 tên nô lệ của thể xác không có thì giờ để nhận thức bản tánh của Tâm, cũng không liễu ngộ được Chân như thực tại.

 Trên biên giới của Trí tuệ và Vật chất,

 tên tội nhân là tri thức có từ kinh nghiệm giác quan,

 bao giờ cũng tự vệ chống lại sự sụp đổ của nó.

 Nó không có thì giờ để khám phá bản Chân tánh.

 Hỡi Rechung, con hãy bám sát Trí Vô sanh.

 

 Trên biên giới Trí bất sinh và cuộc sống vị lai,

 tên tội nhân là ý thức,

 nó tưởng nó là cái gì khác vĩ đại hơn chính nó,

 và nó không có thì giờ để giác ngộ Chân lý.

 Hỡi Rechung, con hãy tìm ra chân tướng của Chân lý Vĩnh cửu!

 

 Trong thế giới Huyễn ảo,

 tên tội nhân là tội tạo ra Nghiệp,

 từ đó ham muốn và ràng buộc nảy sinh.

 Hỡi Rechung, con hãy tránh ưa và ghét.

 

 Có nhiều sự thật bề ngoài và vi tế liên hệ với ưa và ghét,

 bận bịu với chúng người ta không có thời giờ để tìm ra Chân lý.

 Hỡi Rechung, con hãy tránh tranh luận vi tế.

 

 Chư Đạo sư và chư Thiên và Thiên nữ,

 hãy hợp cả ba thành một toàn thể duy nhất

 và tôn thờ toàn thể đó.

 

 Mục tiêu của các người, thiền định và tu tập,

 hãy hợp nhất chúng để đạt Chân tri.

 Hãy nghĩ đến quá khứ, vị lai và hiện tại như là một,

 và tập cho quen với ý niệm này.

 

 Rechung con, đây là lời Phó chúc cuối cùng của ta;

 ngoài Chân lý này không còn Chân lý nào khác.

 Hãy học Chân lý này.”

 

Lửa bây giờ bừng cháy cao hơn, tạo thành hình một căn nhà vuông lớn với bốn cửa vào và trần thiết, ngập trong vầng hào quang của một cầu vồng và những màn ánh sáng. Dường như có những mái vòm trong lửa đỏ; và dưới chân những ngọn lửa uốn cong như những cánh của một đóa hoa sen khổng lồ. Tiếng lách tách của củi cháy giống như âm thanh của những nhạc cụ khác nhau. Khói dâng lên thơm mùi nhang thơm nhất. Bên trên giàn hỏa, chư thiên và thiên nữ đầy khắp bầu trời; một số mang nước cam lồ rưới xuống, những vị khác đem thức ăn và đồ uống, các loại dầu xức và hương thơm, và tất cả đều có thể dự hưởng. Rồi các thiên nữ hát tán ca tiễn biệt Thầy của chúng tôi:

 

 Bởi vì Ngài đã ra đi, nên vài người khóc trong sầu buồn,

Những người khác xúc động quá sâu đến nỗi đã bất tỉnh.

Song với sự bi thương này, lửa há chẳng không nhen mà bùng cháy

Và tạo thành những hình tượng kỳ diệu. 

Không phải tiếng lửa reo giống như âm thanh của não bạt,

tù và, thụ cầm, tiêu, sáo, và trống sao?

Và những tia lửa há không tạo thành hình dáng của hàng thiên nữ vươn lên?

Từ giàn hỏa các thiên nữ ấy đã mang đi xá lợi và tro của ngài đã

bỏ lại lốt phàm.

Ngài đã nhận lấy Chân Thân thấm nhuần tất cả

Từ đó loài người và các loài hữu tình khác có thể được lợi ích.

Bổn tánh Bất tác, Bất sinh, Chân Không, vô thủy vô chung,

Đó là chân Chân lý.

 

Bấy giờ trời đã về chiều và lửa cũng đã tàn. Lại một phép lạ khác xuất hiện. Vì ngôi nhà hỏa táng dường như trống rỗng, song vài đệ tử thấy trong nhà có một bảo tháp vĩ đại, những người khác thấy hiện thân của chư Phật quá khứ, những người khác nữa thấy các biểu tượng tôn giáo, những người khác nữa thấy một khối vàng ròng óng ánh, những người khác nữa thấy một ao nước trong veo, song cũng có những người không thấy gì cả. Rồi họ mở các cửa ngôi nhà hỏa táng để tro than nguội đi và chúng tôi đi ngủ. Đêm đó chúng tôi mơ thấy những xá lợi sẽ thuộc về chúng tôi vào ngày hôm sau. Chính tôi đã mộng thấy: mấy thiên nữ đang khiêng một tinh cầu Ánh Sáng từ trong nhà hỏa táng đi ra và tôi mê mãi ngắm nhìn. Bỗng tôi nghĩ có thể họ lấy tro và xá lợi. Tôi giật mình thức dậy, chạy nhanh vào nhà hỏa táng với vài người bạn. Xá lợi và tro đều mất sạch! Chẳng còn một hạt bụi hay chút tro nào trên sàn nhà. Lòng đau nhói, tôi cầu nguyện các Thiên nữ trong giấc mộng của tôi, yêu cầu họ trả lại tro và xá lợi để làm lợi ích cho mọi người.

Lời đáp vọng từ thiên giới xuống:

“Các anh, những đệ tử chính, há chẳng phải tất cả các anh đã chiếm được những thánh tích quí báu nhất là các Chân lý theo đó các anh đã có Pháp hình thành trong tâm các anh sao? Nếu như vậy chưa đủ, các anh hãy cầu nguyện với Thầy của các anh, có lẽ ngài sẽ ban cho các anh thứ gì đó. Còn loài người, họ đã làm gì xứng đáng để được những xá lợi này? Ngay cả khi đức Milarepa còn tại thế, họ cũng không hiểu được giá trị của ngài, mặc dù ngài là một Bậc rất cao cả. Không, bọn họ không đáng được chút xá lợi nào. Những xá lợi này thuộc về chúng tôi.”

Chúng tôi biết các thiên nữ nói đúng, vì thế chúng tôi cầu nguyện Đạo sư của chúng tôi, để cuối cùng, ít nhất ông cũng cho phép chúng tôi giữ một ít xá lợi, nhắc cho ông nhớ lại cuộc đời khổ nhọc của ông và chúng tôi cũng đã dự một phần nhỏ trong đó. Ông đã tử tế với chúng tôi như thế nào, sao bây giờ ông có thể tỏ ra ít tử tế và thông cảm với chúng tôi như thế được?

Khi chúng tôi hát như thế, thì từ trên Cõi Ánh Sáng, một tinh cầu lớn bằng quả trứng di chuyển xuống, từ tinh cầu phát ra một tia sáng. Mỗi người trong chúng tôi đưa tay ra bắt lấy cho mình, nhưng tinh cầu lại vọt lên khỏi tầm tay và bốc thẳng lên trời. Thay cho tinh cầu, một Bảo tháp vĩ đại lại hiện ra và bên trong là hình tượng Milarepa; hai Thiên nữ canh giữ tượng, mỗi bên một người, và họ hát một tán ca khác:

 

 Hỡi các con và những đệ tử, các người đã kêu gọi danh hiệu

người Cha Tinh thần để cầu xin xá lợi,

Tinh cầu các người thấy đó là hiện thể của Chân Thân.

Làm sao nó thuộc về chỉ một người trong các vị?

Nó không phải là của riêng để các người giữ chặt như thế!

Bây giờ các người đã được thấy các cảnh và biểu tượng lạ lùng rồi.

Đấng Đạo sư đã nhập Chân Thân,

Chính Ngài hóa hiện trong mọi hình tướng khả niệm bằng thần lực.

Các người hãy đặt niềm tin nơi ngài.

Nếu các người tự tách mình ra khỏi thế gian

Thì sẽ được các bậc cõi trên vây quanh đảnh lễ.

Nếu các người chân thanh tu hành,

Sẽ đạt được thành công trong đạo Du già;

Nếu các người bằng lòng với địa vị của mình,

Chắc chắn phiền não ác hại sẽ được tẩy sạch tận gốc:

Nếu các người không bám giữ “cái ta” và những vật sở hữu,

Thì rõ ràng dục vọng của các người đã được chế ngự.

Nếu các người không chú ý đến những khác biệt giai cấp và tôn giáo,

Thì các người sẽ giữ được Chánh kiến.

Nếu các người thấy được tính đồng nhất của

Niết-bàn và thế gian với Tánh Không,

 Thì sự thiền định của các người sẽ Chân chánh.

 Nếu các người có nhiệt tâm và năng lực,

Thì những Hành động của các người sẽ Chân chánh.

Nếu Đạo sư và đệ tử có tâm hợp nhất,

Thì mối liên hệ này sẽ Chân chánh.

Nếu các người nhận được các điềm lành thành công và

những tặng phẩm thiêng liêng,

 Thì Tư duy của các người sẽ Chân chánh.

 Vì thế, hãy để Thiện tín, Kinh nghiệm hỗ tương

 Và lòng thỏa mãn của các người làm xá lợi.

 

Bảo tháp vẫn còn thấy rõ khi các Thiên nữ mang lên xa tít trên đầu chúng tôi. Tuy nhiên khi họ tỏ dấu hiệu từ giã thì Shiwa Wod Repa, sư đệ của tôi, với giọng hát êm ái đã cất lên thêm một lần yêu cầu cuối cùng và họ dừng lại lắng nghe:

 

Ôi, thưa Cha, cha đã hóa thân để giúp loài người,

hỡi bậc Hành giả Du già Hoàn thiện,

Bây giờ người đã thấm nhuần Tất cả chính là Chân lý,

cầu mong người ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người con tại thế và gặp những hành giả Du già khác,

Người đã sáng chói giữa họ, người là bậc Thầy của nếp sống Khổ tu;

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi thầy hầu sư ông, người thật ôn nhu và nhẫn nhục,

sẵn sàng làm những việc thấp hèn nhất,

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người khước từ tất cả những mục đích thế gian,

Người là Thầy của những bậc thầy,

một hành giả Du già cương quyết, đại hùng đại lực;

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người thiền định Giáo lý của sư ông,

người như một con hổ sống bằng thịt người,

không nghi ngờ, không lay chuyển, bao giờ cũng kiên trì,

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người đi qua những vùng cô liêu hoang vắng,

Người kiên cố như đá hoa cương, ở trong quyết tâm

Là một hành giả Du già không thay đổi,

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người đạt được Giác ngộ và

tỏ ra những dấu hiệu của các Năng lực Siêu phàm,

người vẫn dũng mãnh, vô úy;

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người luyên thành Tam-muội Chân hỏa,

Ánh sáng của người tỏa khắp thế gian, người không còn ham muốn,

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người gặp đệ tử chúng con,

người giống như ánh mặt trời chiếu vào kính hội tụ

khiến chúng con làm chủ tâm mình;

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người được tặng những của cải thế gian,

Người chẳng gợn chút lòng tham;

Cầu mong người, hãy ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người thường khuyên dạy hàng ngàn chúng sinh,

Người như ánh sáng mặt trời rọi khắp thế gian buồn tẻ;

Chúng con cầu xin người, bậc Từ bi và Trí tuệ,

Ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người còn tại thế, những ai thấy người

như mẹ gặp con, người làm tất cả những điều lành cho họ;

Chúng con cầu xin người ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người ra đi đến Cõi Ánh Sáng,

Người giống như chiếc rương tàng trữ phước lành,

Chúng con cầu xin người ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi tiên tri người luôn luôn đúng,

Người biết tất cả quá khứ, hiện tại, vị lai;

Chúng con cầu xin người ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Sư phụ, khi người ban ân huệ,

Giống như cha ban cho con, chẳng giữ lại gì;

Chúng con cầu xin người ban cho chúng con, những đệ tử của người,

Bảo tháp các nữ thần đang giữ.

 

Shiwa chấm dứt bài tán ca, chúng tôi nghe giọng nói của Sư phụ vang xuống từ Bảo tháp trên đầu chúng tôi bài pháp cuối cùng chỉ dẫn chúng tôi.

“Con ơi, với niềm tin và sự hứa hẹn tương lai to lớn, con đã cầu xin ta. Bây giờ hãy lắng nghe trong khi ta giảng cho con, người đệ tử áo vải của ta. Về Chân Thân mà ta đã chứng ngộ, không ai có thể nói, “Nó là của tôi,” hay “Tôi có nó,” hay “Tôi không có nó.” Nó là Tánh Không. Tinh cầu mà các con đã thấy là những gì còn lại của thân thế gian của ta và bây giờ đã trở thành Bảo tháp các con đang thấy đó. Nó sẽ tồn tại mãi mãi ở Thiên giới, sẽ được các Thiên thần và chúng sinh cõi trên thờ phượng. Nếu để nó lại cho loài người, nó sẽ dần dần tiêu tan. Các con, những người con tinh thần và tín đồ của ta, đã có phần xá lợi là Chân tri mà ta đã cho các con để các con cũng có thể chứng ngộ Chân Thân trong chính tâm các con. Bây giờ các con hãy suy tư về những điều tương tự, mà nếu lầm lẫn, sẽ đưa đến sai lạc.

 

 Phục vụ một Đạo sư hoàn hảo và

 phục vụ một người giàu có 

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Sự liễu ngộ đích thực về Tánh Không trong tâm mình và

 những ám ảnh hư huyễn của ý thức

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Sự hiểu biết về Cảnh giới Thanh tịnh qua Thiền định và

 sự ưa thích tịch tĩnh sinh ra trong cơn xuất thần Tĩnh lặng

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Cơn Lụt của Trực giác Thâm sâu và

 những niềm tin quyết sâu xa về những gì đúng và thật

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Sự nhận thức rõ ràng về Tâm quán nhiếp và

 sự thúc giục cao quí phụng sự người khác

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Mùa gặt tinh thần và tư hữu thế gian đem lại

 giống nhau song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Sư hướng dẫn tinh thần và những mệnh lệnh từ các Nguồn Cao hơn và những cám dỗ của những yếu tố kém hơn

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn,

 

 Tinh cầu của Chân Thân và tinh cầu nhân tạo

 giống nhau, nhưng không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Chân Niết-bàn và Hoa Trời của Thiên đàng Nhục cảm

 giống nhau, song không giống

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Bảo thấp do chư thiên làm và bảo tháp do ma quỉ làm

 giống nhau, song không giống

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Niềm tin sinh ra từ nghiệp tốt trong quá khứ và

 niềm tin sinh ra từ ngẫu nhiên

 giống nhau, nhưng không giống nhau.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Niềm tin chân thật tự phát sinh từ đáy tim và

 niềm tin do qui ước và giáo dục tạo nên

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Lòng sùng mộ chân thành học Chánh Pháp và

 sự sùng mộ giả vờ để làm hài lòng Đạo sư

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 Sự thành công chân thật đã làm được và

 danh tiếng vì thành công

 giống nhau, song không giống.

 Các con chớ nhầm lẫn.

 

 “Bảo tháp này tượng trưng chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, và chư Phật vị lai. Tất cả chư Phật gặp nhau tại đây. Và Đạo sư Milarepa của các con cũng thiền định tại đây. Bây giờ nó sẽ được đưa lên cõi Trời Hạnh Phúc, nơi nó sẽ được chào đón thích nghi. Nếu các con chân thành và sùng mộ cầu nguyện với bảo tháp này, và kính ngưỡng cúng dường, các con sẽ được bảo vệ trong Niềm tin bất động của các con, và nếu các con mong được năng lực Trí tuệ Cá nhân, hãy cúi đầu đảnh lễ dưới bảo tháp này.”

Bây giờ chúng tôi có thể thấy đài kỷ niệm di chuyển và khi đi ngang qua trên đỉnh đầu chúng tôi, hào quang phát ra rọi lên đầu mọi đệ tử tụ hội nơi đây. Chúng tôi nhìn thấy cảnh vài Thiên thần Cao nhất với đám tùy tùng của họ, cho đến cuối cùng toàn thể hội chúng ngập trong tinh cầu ánh sáng, dường như nó đi nhanh về phương Đông. Vài người trong chúng tôi còn thấy những hiện tượng khác nữa, tùy theo căn cơ của mỗi người.

Dù đã có những lời khích lệ huyền diệu của Thầy như vậy, nhiều người trong chúng tôi vẫn buồn vô cùng vì nghĩ rằng mình không được xá lợi. Một lần nữa, giọng nói của Thầy chúng tôi lại vọng xuống, mặc dù lần này không có ảnh tượng nào đi kèm theo lời nói:

“Các con chớ có tức giận quá như vậy. Muốn có xá lợi kiên cố, các con hãy đến Tảng đá mòn Amolika rồi sẽ thấy bốn chữ khắc bằng phép lạ ở đó. Hãy thành kính và tin tưởng chiêm nghiệm. Hãy đến tìm phía dưới tảng đá mòn đó.”

Chúng tôi lập tức bắt đầu đi tìm và thấy các chữ trên tảng đá mòn nơi đã cử hành lễ hỏa táng. Bây giờ những người cần thánh tích có cả một tảng đá khổng lồ để thờ, lòng họ đã thỏa mãn. Và tảng đá này được dựng tại Tự viện Lapchi-Chubar. Mặt khác, các đệ tử tiên tiến hơn, được hoàn toàn an ủi vì sự mất mát của họ bằng ý nghĩ rằng nơi nào Thầy họ đã đi và đã thành Phật, đến lượt họ gặp lại người ở đó. Họ cũng cảm thấy rằng cuộc đời và tấm gương của Milarepa đã thấm nhuần một tinh thần mới vào các tôn giáo và tâm của tất cả những ai đã nghe nói về ông. Họ cũng biết rằng những cuộc Điểm Đạo Truyền Pháp mà họ đã thọ nhận, mỗi người tự mình hoàn thiện cho chính mình và cho người khác.

Rồi chúng tôi nhớ lại lời Di chúc và Hứa ngôn cuối cùng của Sư phụ Milarepa, trong dó người bảo chúng tôi đào tất cả số vàng mà người đã tích lũy cả đời. Với lòng hiếu kỳ, chúng tôi bắt đầu công việc, vì chúng tôi rất ngạc nhiên người tích lũy vàng bạc để làm gì với một cuộc đời như người đã sống.

Vì thế chúng tôi lật nhào chiếc lò sưởi lên theo lời chỉ dẫn và trước tiên chúng tôi tìm thấy một vuông vải mà Thầy chúng tôi mặc. Trong vuông vải gói một con dao, cán dao tiện hình cái dùi may giày và sống dao dùng để quẹt lửa. Lưỡi dao còn tốt và bén gói cùng với một cục đường nâu và một mảnh giấy viết: “Vải và đường nếu cắt bằng lưỡi dao này sẽ không bao giờ hết. Vải và đường này có thể cắt thành bao nhiêu mảnh nhỏ cũng được, để phân phát cho đại chúng. Tất cả những ai nếm đường này hay sờ vải này đều được phước lành. Đây là thức ăn của Milarepa khi nhập định hợp nhất với Tuyệt Đối Thể, và đã được tất cả chư Phật mười phương ban phước cho. Chỉ nghe danh hiệu Milarepa thôi cũng đủ cho những ai quan tâm được một phần thưởng nho nhỏ. Bất cứ kẻ nào bảo rằng Milarepa có vàng chôn giấu sẽ phải nuốt lời của mình.”

 Câu cuối cùng này làm chúng tôi thích thú, mặc dù đang buồn. Rồi phần chót của bức thông điệp là một bài thơ ngắn giải thích rõ ràng hơn về ý nghĩa viên dung của thức ăn và tấm áo của một người nhập Định (Samadhi), và thêm rằng điều này dành cho những ai giống như người, chứng ngộ cái vô cùng, cái Vũ trụ Toàn thể giống như vàng ròng thì cần gì đến thứ kim loại do con người đặt giá trị vào? Cuối cùng thông điệp kết thúc: “Hãy làm như lời ta khuyên dạy, hỡi các con và đệ tử của ta.”

Rồi chúng tôi cắt vải và đường ra, phân phát tự do, không ai không nhận được món quà ân huệ này. Những tính nết xấu xa, những bệnh tật đã nhường chỗ cho Đức Tin và sự toàn thể tính.

Từ đó, vào những ngày tưởng niệm sự ra đi của người, hoa đẹp muôn màu từ trời cao rơi xuống như mưa khắp cả mặt đất, ngập đến mắt cá chân, lại tan vào cõi hư không. Những cầu vồng rọi sáng cả bầu trời rồi biến mất khi nghi lễ đã hoàn tất, và âm nhạc trang nhã tràn ngập không gian trong lúc nghi lễ tiến hành.

Bậc Đại đạo sư đã để lại phía sau những đệ tử để chứng minh sự thật câu chuyện về đời ngài mà bây giờ tôi kết thúc nơi đây. Người có vô số đệ tử và nhiều người đã đạt Cứu cánh và thành Phật. Có nhiều người đã đi vào Con Đường Giác Ngộ nhờ kết quả của tấm gương và lời dạy của người.



* Hay Rang, Hạt giống Chơn âm (Mantra) của Hỏa đại.

** Có nghĩa là Tôn giả.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Mười 2015(Xem: 9887)
Trong một cơ duyên dịch giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma, tôi khắc ghi lời ngài rằng, nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra tất cả giáo pháp, phương pháp thực hành của đức Thế Tôn đều mang pháp vị giải thoát. Đức Phật tuyên thuyết nhiều giáo pháp ứng hợp cho căn cơ của mỗi chúng sinh.
27 Tháng Tám 2015(Xem: 19739)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác
27 Tháng Năm 2015(Xem: 12744)
Cuốn sách này gồm một hợp tuyển những tác phẩm của Longchen Rabjam (1308-1363) về Dzogpa Chenpo (S. mahasandhi, Việt : Đại Toàn Thiện). Những bản dịch có một giới thiệu chi tiết căn cứ chặt chẽ trên kinh điển và những giải thích truyền thống về phương diện bí truyền sâu xa nhất của Phật giáo.
01 Tháng Hai 2015(Xem: 16503)
Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành.