Phần 6

05 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9462)

CON ĐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Đạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 6


Chánh định

Chánh định là chi cuối cùng của Bát Chánh Đạo. Định là tập trung, gom tâm vào một điểm duy nhất và hoàn toàn không hay biết gì khác, ngoài đề mục. Theo sách Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) của Ngài Buddhaghosa, Chánh Định là tập trung chân chánh và đồng đều tâm vương và các tâm sở đồng phát sanh vào một đối tượn g duy nhất. Như vậy, tâm định là trạng thái tinh thần khi các thành phần của tâm được đặt trên một đối tượng duy nhất một cách đồng đều và chân chánh, không giao động và không phân tán. Cũng theo sách này, đặc tính của tâm định là không xê dịch ra khỏi đối tượng; tác dụng của tâm định là loại trừ phóng tâm; tâm định biểu hiện bằng trạng thái không lay chuyển; và nhân kế cận nhất tạo duyên sanh định là phỉ.

Tâm ta vốn chứa đựng ít nhiều bợn nhơ. Nếu để nó trôi chảy theo dòng diễn tiến tự nhiêrn mà không có sự cố gắng nào để khắc phục, kiểm soát và chuyển hướng nó, cái tâm - dưới sự chi phối của tham ái, sân hận và si mê - sẽ lôi cuốn chúng ta vào những hoàn cảnh khó khăn, rất phiền phức và ô nhiễm bởi vì: "Tâm dẫn đầu tất cả những hành động. Tâm là chủ. Tâm tạo tác tất cả hành động biểu hiện bằng thân, khẩu hay ý."

Theo Đại Đức Nyanaponika, điều trọng yếu là ta phải: 

  1. Hiểu biết cái tâm - tâm rất gần với ta nhưng được chúng ta biết rất ít.
  2. Uốn nắn cái tâm - Tâm rất buông lung, nặng nề, khó dạy, nhưng ta có thể tập cho nó thuần thục, mềm dẻo, dễ uốn nắn.
  3. Giải phóng cái tâm - tâm bị đeo niú, quấn quít, bị trói chặt vào đủ loại phiền não, nhưng ta có thể giải phóng, làm cho nó trở nên tự do, tại nơi đây và trong hiện tại.
1- Hiểu biết cái Tâm: Bản chất của Tâm là luôn luôn di động, phóng chạy đầu này, nhảy đầu kia không ngừng nghỉ.

Vào thời Đức Phật có chàng thanh niên con nhà khá giả, đến nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp và sau đó xin xuất gia với Ngài, được gọi là Tỳ Khưu Sangharakkhita. Một ít lâu, sau những ngày tháng tích cực chuyên cần hành thiền Đại Đức Sangharakkhita đắc quả A La Hán.

Lúc ấy có người em gái của Đại Đức vừa hạ sanh được một trai, lấy tên Đại Đức đạt cho con mình là "Cháu của Sangharakkhita".

Khi cháu lớn khôn, xin xuất gia với Sư Cậu. Vào mùa an cư kiết hạ vị tỳ khưu cháu nhập hạ trong một làng hẻo lánh. Sau khi ra hạ, trong một buổi lễ Dâng Y Sư thọ hai bộ y và phát tâm muốn dâng lên Sư Cậu một bộ. Từ làng, Sư về đến chùa trước khi Sư Cậu đi bát về nên lo quét dọn tịnh thất sạch sẽ, gánh nước đầy lu, sửa soạsn tọa cụ ngay ngắn và chờ Sư Cậu. Khi thấy Đại Đức Cậu về, Sư liền đến trứoc mặt đảnh lễ, rước bát, thỉnh ngồi, rồi rửa chân, dâng nước đến Sư Cậu và lấy quạt quạt Cậu.

Khi làm xong bổn phận người đệ tử Sư Cháu cầm bộ y trên hai tay, quỳ trước Sư Cậu, đảnh lễ và dâng lên. Nhưng Sư Cậu từ chối, bảo rằng, "Sư đã có một bộ y và như vậy là đủ rồi, con hãy giữ lấy mà dùng". Sư cháu hết lời kính xin Sư Cậu thọ nhận nhưng Sư Cậu một mực từ chối vì Ngài nói rằng một bộ y đã đủ cho Ngài rồi. Vị Tỳ Khưu Cháu lấy làm buồn, nghĩ rằng, "Ở ngoài đời Sư với mình đã có tình cậu cháu. Khi xuất gia lại thêm nghĩa thầy trò, cùng tu chung một chùa. Nay mình có được bộ y, phát tâm chia sẻ quả phúc này đến Sư mà Ngài không nghĩ tình cậu cháu, nghiã thầy trò, nỡ đành từ chối như vậy thì mình còn ở lại chùa làm gì? Hãy hoàn tục đi về nhà sống cho rồi." Và, trong khi cầm quạt, quạt cho Sư Cậu, Tỳ khưu cháu tiếp tục suy tư: 

"Sống ngoài đời lúc này làm ăn cũng khó khăn lắm chớ không phải dễ đâu! Nếu ta hoàn tục thì về nhà làm sao sinh sống đây".

Rồi Sư nghĩ tiếp, "Mình có hai bộ y, dâng lên Sư một bộ mà Sư không nhận, vậy mình có dư bộ ấy. Khi về mình sẽ bán bộ y, lấy tiền mua một con dê cái. Giống dê nó đẻ nhiều lắm, không bao lâu con dê cái của mình sẽ đẻ con. Chờ khi con nó lơn mình bán luôn cả mẹ và con ắt có được một số vốn để làm ăn. Chừng đó, có công ăn việc làm, đời sống thoải mái, mình sẽ cưới vợ. Vợ mình sẽ đẻ con và mình sẽ lấy tên Sư Cậu đặt tên cho con mình. Ngày nọ mình để con trên một cái xe đẩy rồi cùng vợ đẩy con đến chùa đảnh lễ Sư Cậu. Đi một đỗi xa mình bảo vợ đem con lại cho mình bồng vì mình muốn bồng con. Vợ mình trả lời: "Tại sao anh bồng nó làm gì, hãy đẩy xe đi, để tôi bồng con." Vừa nói vậy vợ mình bồng xốc con lên. Nhưng vì sức yếu loanh quanh một hồi là té con ngay trước bánh xe và xe cán thằng nhỏ. Lúc ấy mình giận quá, la vợ. "Thấy chưa, sức đã yếu mà còn dành bồng con để nó té bị xe cán. Chết toi rồi!" Tức quá, sẵn cây gậy cầm trên tay mình lấy gậy đập mạnh trên lưng vợ".

Đang lúc đứng quạt Sư Cậu, nghĩ đến đó Sư Cháu cầm quạt đập mạnh vào đầu Cậu. Sư Cậu bị đập đau liền quán xét xem tại sao Cháu lại đập trên đầu mình và tức thì thấy rõ từng chi tiết những gì sẩy diễn trong ý nghĩ của Cháu. Sư liền nói: "Này Con, Con không đập gậy trên lưng người đàn bà thì thôi , cớ sao lại đập quạt trên đầu Sư? Sư có làm gì đâu?"

Đến đây Tỳ Khưu Cháu giụt mình tự nghĩ, "Chết rồi! hình như Sư Cậu đã biết rõ những gì phát sanh trong tâm của mình. Vậy thì làm sao mình có thể còn ở lại đây tu được nữa. Nghĩ như vậy Sư quăng cây quạt bỏ chạy. Nhưng bị người trong chùa bắt lại. Đến trước Sư Cậu Sư thuật lại tự sự. Sư Cậu mở lời khuyên, "Này Sư, Con, hãy lại đây. Chớ nên lo sợ. Tâm là vậy. Nó phóng đi rất xa và đi cùng khắp. Ta phải cố gắng tháo gỡ cho nó các loại dây trói buộc của tham ái, sân hận và si mê".

Tâm là vậy. "Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên đất khô, vùng vẫy như thế nào thì tâm chao động cũng dường thế ấy".

Trong guồng máy phức tạp của con người cái tâm quả thật vô cùng quan trọng. Con người trong sạch do tâm mà nhơ bẩn cũng do tâm. Chính tâm tạo thiên đàng, cũng chính tâm đưa đến cảnh địa ngục. Tâm nâng cao, đưa con người lên, cũng chính tâm hạ thấp, đưa con người xuống. Và cũng như nước, có chiều hướng tự nhiên là từ trên cao trôi chảy xuống thấp, tâm con người, nếu không kiểm soát cụng tự nhiên có khuynh hướng xuôi chiều về ác pháp. Lời dạy của Đức Tôn Sư là:

"Hãy gấp rút làm việc thiện. Hãy chế ngu điều ác trong tâm vì tâm của người buông lung, dễ duôi bê trễ trong việc tạo thiện nghiệp sẽ ưa thích làm việc ác". (Kinh Pháp Cú, câu 116)
Lời dạy này khuyên ta nên vận dụng mọi cố gắng để thanh lọc tâm mỗi khi nó ve vãn gần điều ác. Tâm ô nhiễm sẽ thỏa thích trong ác pháp.
 
 

2- Uốn nắn cái Tâm. Hành thiền là thanh lọc tâm, là kiểm soát, rèn luyện, trau giồi và phát triển, là uốn nắn tâm. Hành thiền không phải là một giấc mơ trầm lặng mà là cố gắng linh động, một sinh hoạt tích cực của tâm

Phương pháp luyện tâm cũng giống như đường lối tập thú, luyện bò chẳng hạn. Bò nghé vừa lớn lên, muốn rèn luyện cho nó đủ thuần thục để kéo xe hay kéo cày, trước tiên người ta thả nó nhập đàn. Sáng theo bày đi ăn, tối lùa về chuồng. Khi nó quen sống chung với những con khác trong khuôn khổ tập thể người ta bắt đầu xỏ mũi: Xỏ sơị dây xuyên qua lỗ mũi rồi choàng vòng lên sừng. Trên sợi dây, mỗi bên có thắt một lỗ nhỏ. Sau đó người ta cột sơị dây dàm, mỗi sơị vào một lỗ của dây mũi. Đâu kia của sợi dây dàm thì quấn vào một cột trụ trồng vững dưới đất.

Hàng ngày người ta dùng dây dàm để điều khiển bò. Tập như vậy cho đến khi có thể gác cái ách lên cổ nó và sai khiến nó làm theo ý mình. Bò chỉ có thể hữu dụng khi được rèn luyện tinh thục. Chừng đó có thể dùng nó để kéo xe hay kéo cày, hay bất luận công việc nào khác.

Trong phương pháp luyện tâm, tinh nghiêm trì giới, tự khép mình vào nếp sống giới đức, cũng như thả bò nhập bầy, sáng theo đàn đi ăn và chiều lùa về chuồng. Nếu để bò nghé sống buông lung hoang dại có thể nó sẽ phá khuấy mùa màng hay làm hư hại cây cối vườn tược của kẻ khác. Cũng thế ấy, con người buông lung không giới đức có thể bị ba nghiệp - thân, khẩu, ý - hoang dại của mình gây tổn hại cho người khác và cho mình, rất nguy hiểm. Tinh tấn chuyên niệm cũng giống như xỏ mũi và cột dây dàm vào trụ. Người hành thiền dùng sơị dây niệm (sati) để điều khiển tâm mình, không để nó phóng túng buông lung chạy nhảy một cách hoang dại mà giữ nó lại và sai khiến, đặt nó vào đối tượng (đề mục, hay công án) nào mà mình muốn.

Trạng thái luôn luôn khuấy động và phóng dật mà tâm đã quen thuộc từ vô lượng kiếp bây giờ đã được điều phục, lắng dịu và an trụ. Cũng như bò đã được rèn luyện thuần thục để kéo xe hay kéo cày, tâm đã sẵn sàng nhu thuận để hành thiền -- thiền vắng lặng hay thiền minh sát --Nếu hành giả không bắt đầu công phu hành thiền của mình bằng phương pháp chú niệm làm cho tâm trơ nên an trụ và nhu thuận thì không khác nào người chủ bò thiếu kinh nghiệm, gác ách con bò hoang dại chưa hề bao giờ được huấn luyện. Khi bắt nó kéo xe hay kéo cày ắt nó chạy loạn, không thể kềm giữ được. Đàng khác, người đã chú tâm an trụ có thể dễ dàng nhập định và đc các tầng Thiền hoặc khai thông tuệ Minh Sát và tiến đến các Thánh Đạo và Thánh Quả.
 
 

Năm Pháp Triền Cái: Trong khi chuyên cần chú niệm người hành thiền có thể gặp nhiều trở ngại nhưng đặc biệt có năm, ngăn chặn công phu gom tâm và ngăn cản con đường giải thoát, được gọi là Chướng Ngại Tinh Thần, hay Triền Cái (Nivarana, Ni +Var, làm trở ngại, ngăn chận, là cái gì gây trở ngại cho tiến bộ tinh thần).

Năm loại chướng ngại tinh thần là: Tham dục, oán ghét, hôn trầm dã dượi, phóng dật lo âu và hoài nghi.

a) Tham dục ( Kãmacchanda) là ham muốn duyên theo nhục dục, luyến ái ngũ trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc. Một người ở mức trung bình thường có khuynh hướng chạy theo những ham muốn có tánh cách huyền ảo phù du của thân, nếu không đủ khả năng để kiểm soát và khắc phục ắt sẽ bị sa đọa, chìm đắm trong dục vọng. Tham dục cũng có thể là những hình thức khát khao tài sản, sự nghiệp, địa vị, quyền thế, danh vọng v.v...

b) Oán ghét (vyãpãda) là bất mãn, bất toại nguyện. Những gì ưa thích dẫn đến luyến ái. Những gì trái ngược với sở thích đưa đến ghét bỏ, giận hờn, thù hận, không bằng lòng, bất toại nguyện v.v... Luyến ái và ghét bỏ là hai ngọn lửa to lớn thiêu đốt thế gian. Chính hai loại tâm này, được vô minh hỗ trợ, đã gây tất cả những điều bất hạnh trong đời.

c) Hôn trầm Dã dượi là một cặp hai yếu tố dính liền nhau do đặc tính chung của nó là trạng thái uể oải. Hôn trầm (thĩna) là trạng thái uể oải của tâm vương. Dã dượi (middha) là trạng thái uể oải của tâm sở. Một trạng thái tâm nhuể nhoại như nhựa dẻo trên khúc gỗ hay một miếng bơ cứng khó trét ra. Nên ghi nhận: Đây chỉ là trạng thái tâm, chớ không phải tình trạng mệt mỏi, lười biếng cử động tay chân. Một vị A La Hán, đã tận diệt mọi triền cái, đôi khi vẫn còn cảm nghe cơ thể mệt mỏi. Nghịch nghĩa với dã dượi hôn trầm là tinh tấn kiên trì.

d) Phóng dật Lo âu. Phóng dật (uddhacca) là trạng thái bất ổn của tâm luôn luôn chao động, không yên. Đó là tâm trạng liên quan đến tất cả những loại tâm bất thiện. Thông thường khi hành động bất thiện thì tâm không yên mà luôn luôn chao động. Lo âu (kukkucca) là tâm trạng lo lắng, hối tiếc một hành động bất thiện đã làm, hoặc một hành động thiện đã bị bỏ lãng, không làm hay làm không hoàn bị. Đúng theo tinh thần Phật Giáo, chính sự ăn năn hối tiếc một hành động xấu đã làm không ngăn cản được hậu quả không tốt của nó. Hối tiếc tốt đẹp nhất là quyết tâm không lặp lại hành động bất thiện ấy nữa.

e) Hoài nghi (Vicikicchã = Vi là không chứa đựng + cikicchã là trí tuệ) là tâm bất định. Hoài nghi ở đây không phải là ý muốn tìm hiểu -- điều mà Phật Giáo luôn luôn khuyến khích nên làm -- mà là tâm trạng lưng chừng, không quyết định.

Hoài nghi ở đây cũng không phải là thiếu niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng vì một người không phải Phật tử, không có niềm tin nơi Tam Bảo, vẫn có thể khắc phục Vicikicchã và đắc Thiền (Jhãna). Hoài nghi là một chướng ngại tinh thần vì nó là tâm trạng lỏng lẻo, không nhất quyết về điều đáng làm.

Năm triền cái kể trên là những chướng ngại tinh thần làm phân tán sự chú tâm và lu mờ sự bén nhạy của trạng thái thức tỉnh. Một cái tâm mà bị các trở lực tệ hại ấy ngăn chặn ắt không thể thành công tập trung vào một đề mục nào có bản chất trong sạch. Nếu không có Chánh Tinh Tấn, hay sự nỗ lực chân chánh, thì không thể điều phục năm chướng ngại này. 
 
 

Năm Chi Thiền: Trong lúc ngồi thiền, gia công như vậy thì năm triền cái, từ đáy sâu của dòng nghiệp có thể phát hiện dưới hình thức ý nghĩ, hình ảnh, hoặc cảm xúc như ý muốn thiên về tham dục, hay cảm nghe bực tức, buồn phiền, dã dượi lười biếng, chao động không yên hay hoài nghi. Hành giả phải hết sức khéo léo, nhẹ nhàng nhưng nhất quyết, kiên trì tinh tấn, gia công đem tâm về đề mục, đồng thời phát triển năm yếu tố tinh thần gọi là chi thiền (Jhãnanga), có thể tạm thời khắc phục các triền cái.

Những yếu tố tinh thần này vẫn hiện hữu lúc bình thừong nhưng khi hành thiền nó trở nên mạnh mẽ, linh dộng và có khả năng chuyển tâm đến trạng thái định.

Năm chi thiền là: Tầm, Sát, phỉ, lạc, trụ.

a) Tầm (vitakka = vi + căn takk), Phạn ngư này thừơng được dùng trong ý nghiã suy tư. Ở đây là hướng những tâm sở đồng phát sanh về đối tượng. Theo Bản Chú Giải, ông quan đại thần hướng dẫn một nông dân quê mùa vào hoàng cung yết kiến vua như thế nào thì, cùng thế ấy, "Tầm" hướng dẫn tâm đến đề mục.

Bình thường, tầm là một tâm sở không có tánh cách đạo đức, tức không thiện cũng không bất thiện. Khi liên hơp với tâm thiện (kusala citta) thì nó là thiện, và khi liên hợp với tâm bất thiện (akusala citta) nó là bất thiện.

Chi thiền Tầm tạm thời khắc phục triền cái dã dượi hôn trầm.

b) Sát, cũng được gọi là tứ (vicãra = Vi + căn cãr) là di động, hay di chuyển bất định. Sát, quan sát hay dò xét, có nghĩa là liên tục áp đặt tâm trên đối tượng. Theo Bản Chú Giải, sát là cái gì di động quanh quẩn đối tượng và có đặc tính dò xét. Tầm cũng giống như con ong bay hướng về hoa. Sát như ong quanh quần vo ve trên cái hoa. Hai chi thiền Tầm và Sát liên quan với nhau rất mật thiết

Chi thiền Sát tạm thời khắc phục triền cái hoài nghi.

c) Phỉ ( piti, xuất nguyên từ căn "pi") là thích thú, hoan hỷ. Phỉ không phải là một loại thọ (vedannã) như thọ lạc (sukha). Một cách chính xác, phỉ là tâm sở đến trước và trong khi xuất hiện, báo hiệu rằng sắp có thọ lạc. Có năm loại Phỉ là: 

- Cái vui làm rùng mình, rởn óc, hay nổi da gà; 
- Cái vui thoáng qua mau lẹ như trời chớp;
- Cái vui tràn ngập như sóng biển trườn trên bãi;
- Cái vui thanh thoát đem lại cho hành giả cảm giác nhẹ nhàng như bông gòn lữnbg lờ bay theo chiều gió.
- Cái vui thấm nhuần toàn thể châu thân như bong bóng được thổi phồng hay trận lụt tràn ngập cả ao vũng.
Chi thiền Phỉ tạm thời khắc phục triền cái oán ghét, bất mãn, bất toại nguyện.

d) Lạc (sukha) là cảm giác an lạc, hạnh phúc. Đặc tính của Lạc là thỏa thích hưởng thụ điều gì mình mong muốn.

Khách lữ hành mệt mỏi, đi trong sa mạc, thấy xa xa có cụm cây và ao nước. Trạng thái vui mừng cảm nhận triển vọng tốt đẹp, trước khi thọ hưởng là phỉ. Khi đến tạn ao nước, trạng thái thỏa thích tắm rửa và uống nước là lạc.

Ta nên phân biệt trạng thái thích thú tinh thần ( thọ lạc, sukha) này với khoái lạc vật chất. Đây là trạng thái thích thú không liên quan đến thú vui vật chất mà trái lại, là hậu quả dĩ nhiên của sự từ bỏ thú vui vật chất. Hạnh phúc Niết Bàn càng tế nhị và sâu xa cao thượng hơn hạnh phúc của Thiền (Jhãna) nhiều. Hạnh phúc Niết Bàn không còn là một loại cảm giác (thọ) nữa mà là sự giải thoát trọn vẹn ra khỏi mọi hình thức đau khổ, giống như trạng thái thoải mái dễ chịu của người tàn phế nay được phục hồi trở lại và mạnh khỏe bình thường. 

Chi thiền Lạc tạm thời khắc phục triền cái lo âu phóng dật.

e) Trụ ( ekaggata = eka + agga + ta), đúng theo ngữ nguyên, là sự an trụ tâm vào một điểm duy nhất, hay nhất điểm tâm. Hành giả chuyên chú gom tâm vào đề mục cho đến khi tâm hoàn toàn vững chắc an trụ vào đó, bao nhiêu tư tưởng khác đều bị gạt bỏ ra ngoài.

Chi thiền Trụ tạm thời khắc phục triền cái tham dục.
 
 

3- Giải phóng cái Tâm: Để kiểm soát, uốn nắn và giải phóng tâm, trong Phật Giáo có hai loại thiền.

Theo một lối, thiền hành giả gom tâm vào một điểm và cột chặt tâm lâu dài vào điểm duy nhất ấy để phát triển vắng lặng, an lạc. Danh từ Pàli gọi thiền này là samatha bhàvavà, phương pháp trau giồi tâm nhằm làm cho nó trở nên tĩnh lặng. Ta gọi là thiền chỉ, thiền định hay thiền vắng lặng.

Lối thiền khác là vipassanà, thiền minh sát -- cũng gọi là thiền quán hay thiền tuệ -- hướng tâm định soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn pháp. Đại Đức Piyadassi giải thích như sau: 

"... Danh từ vipassanà (vi + passanà), trong một biến thể, có nghĩa là "thấy một cách phi thường", thấy khác với lối thấy thông thường, do hai thành phần "passati" là thấy và "vi" hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Đây không phải là nhìn thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát (vipassanà bhàvanà) là loại thiền mà chính Đức Phật đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban truyền, trước kia chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..."
 
 

Thiền Vắng Lặng.

Thí dụ như hành giả lấy hơi-thở-ra-thở-vô làm đề mục, trụ tâm vào điểm mà luồng hơi thở ra và thở vào chạm đến -- có thể là chót mũi hoặc phía trên môi trên. Khi hành như thế ít lâu hành giả có thể hình dung rõ ràng cảm giác xúc chạm của luồng gió vào nơi đụng ấy. Đó là uggaha nimitta, ấn tượng hình dung. Không để gián đoạn, hành giả cố tâm vào cái hình ảnh phát hiện trong tâm ấy một cách liên tục đến khi phát triển một hình ảnh khái niệm (patibhàga nimitta). Sự khác biệt giữa ấn tượng hình dung (uggaha nimitta) với ấn tượng khái niệm (patibhàga nimitta) là trong ấn tượng khái niệm, hình ảnh phát sanh do tri giác, được thanh lọc trong sạch, sáng sủa như mặt trăng không bị mây che, còn trong ấn tượng hình dung, hình ảnh mù mờ như mặt trăng nhìn xuyên qua lớp mây. 

Trong lúc liên tục chuyên chú gom tâm vào khái niệm trừu tượng như vậy năm pháp triền cái tạm thời được khắc phục, hành giả đạt đến mức độ gọi là cận định (upacàra samàdhi). 

Vẫn tiếp tục gia công, vào một lúc nào hành giả có thể nhập định (appanà samàdhi, định trọn vẹn) và đắc Thiền (Jhàna), thọ hưởng trạng thái an tĩnh và vắng lặng của tâm an trụ. Hai trạng thái cận định và định chỉ khác nhau ở sức mạnh của các chi thiền. Lúc cận định vẫn có đầy đủ năm chi thiền nhưng năng lực của các chi thiền chưa được vững chắc, giống như em bé tập đi, khấp khểnh bước vài bước rồi té xuống. Đứng dậy đi nữa, rồi té xuống nữa. Khi nhập định rồi thì giống như người lớn mạnh khỏe, đi đứng ngay thẳng, vững vàng. Năm chi thiền - tầm, sát, phỉ, lạc, trụ -- đồng thời phát sanh mạnh mẽ bao gồm cái được gọi là Thiền (Jhàna) và năm pháp triền cái tạm thời được chế ngự. 

Hành giả tiếp tục gia công và phát triển Nhị Thiền. Đến đây, hai chi thiền đầu tiên -- tầm và sát -- bị loại đi. Hành giả đã quen thuộc, không còn phải qua hai giai đoạn tầm và sát nữa mà thẳng vào phỉ và lạc rồi đến trụ. 

Đến Tam Thiền, chi thiền phỉ bị loại, chỉ còn lạc và trụ. Cuối cùng đến Tứ Thiền, luôn cả lạc cũng không còn mà chỉ có xả (upekkhà) và trụ. Chi thiền xả có tầm quan trọng đặc biệt về mặt đạo đức và tâm lý. Đây không phải là thọ xả, tức thọ vô ký, cảm giác không vui không buồn. Chi thiền xả là trạng thái tâm bình thản giữa những hoàn cảnh thăm trầm của đời sống, phải do một ý chí mạnh mẽ phát triển. Nhận định rằng chi thiền lạc vẫn còn thô kịch, hành giả loại trừ luôn chi thiền ấy như đã loại trừ ba chi thiền trước và trau giồi, phát triển chi thiền xả, đắc Tứ Thiền, tầng cao nhất của Thiền Sắc Giới. 

Đã thành tựu tất cả bốn tầng thiền của Thiền Sắc Giới, hành giả chuyên chú gia công trau giồi Thiền Vô Sắc. Trong phần chú giải quyển Abhidhammattha Sangaha, Đại Đức Nàrada viết như sau: 

"... Vị hành giả đã có phát triển Thiền Sắc Giới (Rùpa Jhàna) và bây giờ muốn trau giồi Thiền Vô Sắc, bắt đầu gom tâm vào ấn tượng khái niệm (Patibhàga nimitta, đã có đề cập đến ở phần trên). Khi chuyên chú gom tâm như vậy một ít lâu hành giả thấy một đốm sáng nhỏ, yếu, giống như con đôm đốm, phát ra từ đối tượng. Hành giả ước nguyện rằng ánh sáng nhỏ này sẽ lớn lên dần dần cho đến bao trùm toàn thể không gian. Đến đây hành giả không còn thấy gì khác, ngoài ánh sáng này, cùng khắp mọi nơi. Không gian đầy ánh sáng này không có thiệt, không thật sự hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ là một hiện hữu, không phải là một thực tại, mà chỉ là một khái niệm. Gom tâm vào đối tượng này hành giả niệm "àkàsa ananto", không gian vô tận vô biên, cho đến khi phát triển Sơ Thiền Vô Sắc, tầng Thiền Vô Sắc đầu tiên, Không Vô Biên Xứ, cảnh giới không gian vô biên. 

"Lấy Sơ Thiền làm đề mục, hành giả tiếp tục gom tâm vào đó và niệm, "vinnanam anantam", thức vô tận vô biên, cho đến lúc phát sanh Nhị Thiền Vô Sắc, Thức Vô Biên Xứ, cảnh giới thức vô biên. 

"Để phát triển Tam Thiền Vô Sắc, Vô Sở Hữu Xứ, hành giả lấy tâm Sơ Thiền Vô Sắc làm đề mục và niệm "natthi kinci", không có gì hết. 

"Tứ Thiền Vô Sắc được phát triển bằng cách lấy Tam Thiền Vô Sắc làm đề mục. Tam Thiền Vô Sắc này vi tế đến độ ta không thể quả quyết rằng có tâm hay không có tâm. Khi chăm chú ít lâu vào Tam Thiền hành giả phát triển Tứ Thiền, Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng

"Bốn tầng Thiền Sắc Giới khác nhau do các chi thiền. Bốn tầng Thiền Vô Sắc thì khác nhau do đề mục gom tâm. Sơ Thiền và Tam Thiền Vô Sắc có hai khái niệm (pannati). Đó là khái niệm về tánh cách vô biên của không gian và khái niệm về hư vô. Tâm Nhị Thiền lấy tâm Sơ Thiền làm đề mục. Tâm Tứ Thiền lấy tâm Tam Thiền làm đề mục ... " 

Hành giả đã tiến đạt đến tuyệt đỉnh của thiền vắng lặng. Tuy nhiên, đến tầng vắng lặng cao siêu cùng tột này hành giả vẫn còn chưa trọn vẹn phát triển đủ ánh sáng trí tuệ để đánh tan đêm tối vô minh ngủ ngầm trong luồng nghiệp. Vô minh và ái dục giống như hai con thú dữ. Hành giả chỉ nhốt trong chuồng mà không diệt. Ngày nào sút chuồng nó sẽ còn là tai hại lớn lao. Vì lẽ ấy hành giả chưa tuyệt đối châu toàn, chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới), chưa hoàn toàn giải thoát. 

Trước ngày Thành Đạo của Bồ Tát Gotama, chỉ có thiền vắng lặng, samatha bhàvanà. Hai vị đạo sư lỗi lạc thời bấy giờ, thầy của Bồ Tát, là những vị đắc thiền cao nhất, lúc ấy chưa ai đạt đến. Các Ngài đã tiến đến mức cùng tột của thiền vắng lặng là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng. Chắc chắn đây là mức rất cao của tâm định khi hành giả tạm thời trọn vẹn đè nén, khắc phục năm triền cái. Các chi thiền phỉ và lạc phát sanh, đưa đến trạng thái tâm tuyệt đối vắng lặng và an lạc. Nhưng Bồ Tát không thỏa mãn với những thành quả ấy. Đã kiểm soát và khắc phục tâm, tạm thời làm chủ mình, nhưng Ngài nhận định rằng bấy nhiêu đấy chưa đủ. Thú dữ vẫn còn đó. Phải tận diệt mọi nhiễm ô và mọi hoặc lậu mới tuyệt hậu hoạn. Mục tiêu cứu cánh của Ngài chỉ là chứng ngộ Chân Lý Cùng Tột, chứng ngộ Thực Tại, thấy sự vật đúng như sự vật là như vậy, tức là chứng ngộ ba đặc tướng của các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã. Chính nhờ trí tuệ trực giác này mà Bồ Tát đập vỡ tung cái vỏ Vô Minh dày cứng đã bao phủ Ngài từ vô lượng kiếp để vượt đến Thực Tại, để chứng ngộ tận tường và trọn vẹn Bốn Chân Lý Cao Thượng "trước kia chưa từng được nghe".
 
 

Thiền Minh Sát.

Pháp hành mà chúng ta thảo luận đến đây là chú niệm, gom tâm an trụ vào một điểm duy nhất và không biết gì ngoài điểm ấy. Có một pháp định tâm khác, gọi là Thiền Minh Sát, không hạn chế đối tượng của niệm bằng cách chỉ chú tâm vào một đối tượng bất di dịch mà hướng tâm vào những trạng thái luôn luôn biến đổi của tâm và thân, ghi nhận bất luận hiện tượng nào xảy diễn đến mình. Công phu hành thiền của hành giả là giữ chú niệm của mình bám sát vào bất luận gì mình tri giác, nhưng buông bỏ tất cả, không bám níu gì hết. Trong khi tu tập theo dõi ghi nhận như vậy tâm định của hành giả càng lúc càng kiên cố cho đến một lúc nọ trở thành nhất điểm tâm, vững chắc trên mỗi điểm của luồng trôi chảy luôn luôn biến đổi của sự vật. Mặc dầu đối tượng đổi thay, di động như thế nào, tâm nhất điểm của hành giả luôn luôn an trụ vững vàng vào đó. Tâm định vừa vững chắc vừa di động này được phát triển bằng cách thực hành Tứ Niệm Xứ: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, đây là "con đường duy nhất để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn." 
 
 

Khác biệt giữa Thiền Vắng Lặng và Thiền Minh Sát.

Thiền Vắng Lặng là pháp môn nhằm đè nén năm triền cái và định tâm trong một đối tượng nhất định. Tâm phỉ lạc đưa đến chứng đắc các tầng Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thiền Minh Sát đưa đến một loại trí tuệ nhận thức rõ ràng ba đặc tướng của các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã. 

Trong thiền vắng lặng, hành giả chọn và xử dụng một trong số các môn, như nhãn môn hay ý môn. Còn các môn khác thì không dùng. Trong thiền minh sát, hành giả không nhất thiết chọn một đề mục nào mà dùng cả sáu môn cùng với sáu đối tượng của nó. 

Trong thiền vắng lặng, khi hành giả chọn đề mục, dùng tâm quán tưởng ở trong đề mục ấy cho đến lúc tâm có đủ năng lực đè nén năm triền cái, năm chi thiền dần dần hiện rõ, tâm an trụ vững trong đề mục và cuối cùng chứng đắc các tầng Thiền (Jhàna). Năm triền cái đối nghịch với thiền vắng lặng vì là chướng ngại, cản trở tâm an trụ, nhưng không đối nghịch với thiền minh sát. Niệm về năm triền cái, tức lấy sự hay biết năm chướng ngại tinh thần này làm đề mục thiền, là một phần của Niệm Pháp. 

Đối tượng của thiền minh sát là thực thể pháp trong thời hiện tại, những gì thật sự xảy diễn trong khoảnh khắc hiện tại. Đối tượng của thiền minh sát là Tứ Niệm Xứ. Các đối tượng chế định, do hành giả tự tạo như ấn chứng, cảm giác hay hình ảnh v.v... không thể dùng làm đối tượng thiền minh sát, chỉ dùng làm đối tượng của thiền vắng lặng. 

Dầu thiền vắng lặng và thiền minh sát có sự khác biệt nhau song thiền vắng lặng có thể làm nền tảng cho thiền minh sát như trường hợp Đức Phật. Ngài tiến cao đến mức cùng tột của thiền vắng lặng là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng rồi xả thiền, quán chiếu thân và tâm Ngài, dùng chi thiền phỉ, lạc v.v... làm đối tượng và thấy rõ vô thường, khổ, vô ngã. Đó là "thiền minh sát dùng thiền vắng lặng làm nền tảng." 

Ta cũng có thể trực tiếp hành thiền minh sát mà không qua thiền vắng lặng, như chỉ quán niệm theo bốn oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi. 

Để giải đáp một câu hỏi về sự khác biệt giữa thiền vắng lặng và thiền minh sát, Ngài Acharn Chah -- một thiền sư danh tiếng ở Thái Lan -- nói: 

"... Thật dễ hiểu. Thiền vắng lặng và thiền minh sát cùng đi chung với nhau. Trước tiên, do nhờ pháp hành gom tâm an trụ vào đề mục, tâm trở nên an tĩnh, vắng lặng. Tâm chỉ vắng lặng trong khi ta ngồi thiền. Đó là thiền vắng lặng. Căn bản tâm định sẽ khởi duyên, tạo điều kiện cho trí tuệ, tuệ minh sát, phát sanh. Đến mức độ này tâm luôn luôn vẫn an tĩnh, dầu ta ngồi nhắm mắt tham thiền nơi vắng vẻ hay đi bách bộ giữa phố phường nhộn nhịp. Nó là vậy. Ngày nào còn là trẻ con, giờ đây lớn khôn. Ta là người đứng tuổi. Em bé thủa nào và người đứng tuổi hiện nay có phải là một không? Có thể nói là một. Hoặc, theo một lối nhìn khác, có thể nói là hai người khác biệt. Cùng thế ấy, ta có thể tách rời thiền vắng lặng và thiền minh sát. 

"Chớ tin Sư bằng lời. Hãy thực hành đi, rồi tự mình sẽ thấy. Không cần phải làm gì đặc biệt. Nếu chăm chú quan sát, nhin xem trạng thái vắng lặng và trí tuệ phát sanh thế nào, quý vị sẽ tự bản thân thấu đạt chân lý. Trong những năm sau này người ta quá chú trọng đến danh từ. Họ gọi pháp hành của họ là minh sát và coi rẻ thiền vắng lặng. Hoặc họ gọi thiền của họ là vắng lặng và hãnh diện nói rằng muốn thành công thiền minh sát phải trải qua giai đoạn hành thiền vắng lặng. Tất cả những lời qua tiếng lại ấy là điên cuồng. Chớ nên bận tâm suy tư. Chỉ giản dị hành. Tự mình sẽ thấy ...." 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn