Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách Văn

08 Tháng Giêng 201604:05(Xem: 7142)

山大圓禪師警策文
QUY SƠN ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ CẢNH SÁCH VĂN
BÀI VĂN CẢNH SÁCH CỦA ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ Ở NÚI QUY
Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu
Thánh Tri Phỏng Việt Dịch

 

LỜI TỰA 

Từng nghe sanh tử là việc lớn, vô thường lại chóng mau, thật không đợi chờ người. Nếu không quyết tâm ngay đời này giải thoát thì làm sao thắng nỏi con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm và giải quyết cho xong việc lớn sanh tử? Tuy nhiên, muốn được vậy cũng cần phải biết đâu là then chốt của sự tu hành. Ngặt nỏi ngày nay cách chư Thánh Hiền đã xa, Phật pháp chẳng còn mấy ai thông hiểu. Dẫu có hiểu cũng rất sơ sài, nên dễ sanh tà kiến sai trái, lầm phương tiện cho là cứu cánh, khiến cho Phật Pháp bị lưu mờ. Thế thì biết nương nơi đâu mà vào Đạo?

Cũng may thay! Tuy các bậc Thánh Hiền đã viên tịch hoặc ẩn tích, nhưng lời dạy cao đẹp của các ngài vẫn còn âm vang trên trang giấy, tỏa sáng trong tâm hồn của những kẻ lầm mê, khiến được chợt tỉnh mà biết đường về. Điển hình là bài văn cảnh sách này của Tổ Quy Sơn (năm 771-853). Ngài là bậc triệt ngộ xuất chúng dưới tòa của Tổ Bá Trượng, là đời thứ tư của dòng Tào Khê, là người sáng lập ra tông Quy Ngưỡng, khai mở huệ nhãn cho không biết bao nhiêu là người tăng kẻ tục, và đã từng tỏa sáng cả một phương trời.

Quy Sơn Cảnh Sách là bài văn nhắc nhở sách tấn cho đồ chúng dưới tòa của Tổ Quy Sơn. Dù trãi qua đã hơn ngàn năm nhưng những lời dạy sâu sắc của ngài vẫn còn áp dụng được cho đời sống và sự tu hành trong hiện tại. Chỉ ngại là chẳng có ai muốn nghe và làm theo vì cho rằng xa xưa không hợp với thời đại nữa đó thôi! Song, xét cho cùng thì người thời nay muốn tu giác ngộ giải thoát mà không nghe và không làm theo những lời vàng ngọc trong sách này thì thật là không thể được! Vậy thì chỉ sợ rằng lời thật mất lòng, lời ngay trái tai mà thôi, chứ đâu ngại gì đó là lời nói của ngàn năm trước!

Thật diễm phúc khi được đọc những lời thiết tha nhắc nhở sách tấn của Tổ Quy Sơn. Khi đọc cũng như chính tai được nghe dưới tòa của ngài trong hiện tại. Nếu biết làm theo thì cũng có thể rửa sạch thân tâm, dần bớt phiền não, chẳng thể làm Thánh cũng có thể làm Hiền, quả giác ngộ giải thoát cũng dần mà được, vậy thì đâu thể không cảm kích, vui mừng, ghi lòng tạc dạ mà vui làm theo ư?

Chính vì thấy mấy lời cảnh sách này hữu ích, nên chư Tổ từng đời về sau khắp các Tùng Lâm Tự Viện ở Trung Quốc cũng như Việt Nam đều lấy đó mà dạy các chú Sa Di mới vào chùa. Song, thiết nghĩ những lời dạy sâu xa như vậy đâu chỉ hạng buộc ở lúc còn làm Sa Di và chỉ dành riêng cho người xuất gia thôi đâu? Kỳ thật những lời dạy này người nào cũng có thể học tập tu hành dù là tại gia hay xuất gia, dù đã thọ Thập giới hay  Đại giới, và dù là bậc Thượng căn, Trung căn, hay Hạ căn. Bởi vì việc giải thoát giác ngộ thì ai cũng có thể học tập tu hành để tự cứu lấy chính mình, báo đền bốn ân ba cõi. Hơn nữa, việc sanh tử chưa giải quyết xong thì những lời dạy này của Tổ làm sao có thể bỏ qua?

Tổ Quy Sơn dạy: “Nếu có người căn cơ ở bậc Trung, không thể ngay nơi pháp Đốn Ngộ này mà vượt thoát, thì nên ở nơi giáo pháp mà lưu tâm, tìm học kinh giáo, nghiên cứu nghĩa lý cho rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để báo đền ân đức của Phật.” Lại dạy: “Nói ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa.”

Vì thế, chúng tôi cố gắng nghiên cứu học tập những lời dạy này của Tổ để tự răng nhắc và sách tấn lấy mình trên bước đường tu giác ngộ giải thoát, hầu đáp đền ân sâu của Phật, Tổ. Song, tìm đọc khắp những bản dịch xưa nay thấy những bài đó vì văn từ quá súc tích, cũng như sát và xa chữ quá, nên khiến cho ý của Tổ Sư bị lưu mờ khó hiểu. Vì vậy cho nên chúng tôi mới mạo muội, chẳng quảng ngu hèn, dù không biết chữ Hán, nhưng cố gắng lần mò, đọc tới đọc lui khắp các bản Việt dịch xưa nay, đồng thời dùng từ điển Hán Việt tra đi xét lại từng chữ kỹ càng, và cũng như dùng sự hiểu biết và kinh nghiệm tham thiền của chính mình mà “phỏng” dịch ra Việt văn. Vốn dịch sách này là để tự nghiên cứu học tập và răng nhắc sách tấn cho chính bản thân, đâu dám có lòng cao ngạo khoe trương để mong sánh ngang hàng cùng những bậc uyên bác, thạc đức xưa nay. Nhưng chợt nhớ lại lời khuyên của Tổ Quy Sơn ở trên rằng: “tìm học kinh giáo, nghiên cứu nghĩa lý cho rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để báo đền ân đức của Phật.” Lại suy xét kỹ càng thì dịch ra ắt cũng có lợi ích cho người dù ít dù nhiều, đâu dám đem lòng ích kỷ hẹp hòi che giấu giáo pháp của Phật và Tổ. Do vậy chúng tôi xin chân thành giới thiệu và gữi khắp các người hữu duyên nơi giáo Pháp của Phật, ngõ hầu góp một phần nào làm cho người đọc hiểu được ý Tổ Sư, thấy được con đường hướng Thượng của Đại Thừa, cũng là để cho học giả và hành giả trong hiện tại và về sau có thêm tài liệu phong phú mà nghiên cứu học tập tu hành, và giữ gìn truyền mãi bài cảnh sách này để làm lợi ích cho hàng hậu học về sau, báo đền ân đức của chư Phật và Tổ.

          Kính mong chư tôn Thiền Đức Tăng Già và các vị thiện hữu tri thức gần xa hiểu được và thương tình cho lòng thành mà từ bi, ủng hộ, và chỉ giáo thêm cho chúng con được thấm nhuần chỉ thú.

          Thành tâm cảm niệm ân đức cao cả sâu dầy của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, chư liệt vị Tổ Sư, Thánh Hiền Tăng, các bậc thiện hữu tri thức từ xưa đến nay, đã dầy công tu tập, xả thân vì Đạo để bảo tồn và lưu truyền Pháp bảo cao quý này, để cho hàng hậu học chúng con vẫn còn được chút phúc duyên mà học tập tu hành ngay hiện tại. Đặc biệt cảm niệm Hòa Thượng Ân Sư đã từ bi diều dắt, mở đường chỉ lối cho chúng con được nương nơi pháp Đốn Ngộ của Phật, Tổ mà trực thẳng đến bờ Diệu Giác, chẳng còn sợ bị lầm đường lạc lối nữa. Vì vậy chúng con xin nguyện y giáo phụng hành để báo đáp thâm ân. 

Đầu mùa Đông năm 2016

Thánh Tri kính viết

山大圓禪師警策文
QUY SƠN ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ CẢNH SÁCH VĂN
BÀI VĂN CẢNH SÁCH CỦA ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ Ở NÚI QUY
Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu

Thánh Tri Phỏng Việt Dịch

Đoạn 1

Hán:

夫業繫受身。未免形累。禀父母之遺體。假衆緣而共成。

雖乃四大扶持。常相違背。

Hán-Việt:

Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội.

Việt:

Do nghiệp lực trói buộc mà có thân, nên chưa thoát khỏi các khổ lụy về thân. Thọ nhận cái tinh huyết của cha mẹ, lại vay mượn các duyên mà hợp thành. Tuy nương nơi bốn đại mà duy trì nhưng bốn đại ấy thường chống trái lẫn nhau.

 

Đoạn 2

Hán:

無常老病不與人期。朝存夕亡。刹那異世。譬如春霜。曉露。

倏忽即無。岸樹。井藤。豈能長久念念迅速。一刹那間。

轉息即是來生。何乃晏然空過。

Hán-Việt:

Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát-na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô, ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát-na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?

Việt:

Vô thường già bệnh không hẹn một ai. Sớm còn tối mất, trong khoảng sát-na đã qua đời khác. Giống như sương của mùa xuân, móc của ban mai, chốc lát liền không, như cây bên bờ vực, như những thực vật leo mọc trên vách giếng, làm sao có thể lâu bền được!? Niệm niệm nhanh chóng nối nhau, trong một sát-na, chuyển hơi thở thì đã là đời sau. Làm sao có thể yên lòng để đời mình trôi qua vô ích như thế được?

 

Đoạn 3

Hán:

父母不供甘旨。六親固以棄離。不能安國治邦。家業頓捐繼嗣。

緬離黨。剃髮禀師。内勤克念之功。外弘不諍之德。逈塵世。冀期出離

Hán-Việt:

Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự, miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.

Việt:

Đối với cha mẹ không dâng cho miếng ăn ngon ngọt, quyến thuộc cũng quyết rời bỏ xa lìa, không thể trị an việc nước, lại chấm dứt nối dõi nghiệp nhà, xa làng bỏ xóm, cắt tóc vâng thầy học Đạo. Vậy nên bên trong cần giữ được cái niệm công phu tu tập, bên ngoài thì mở rộng cái đức hạnh không tranh chấp, xa rời trần thế, cầu mong giải thoát.

 

Đoạn 4

Hán:

何乃纔豋戒品。便言我是比丘。檀越所須。喫用常住。

不解忖思來處。謂言法爾合供。喫了聚頭喧喧。但人間雜話。

然則一期趁樂。不知樂是苦因。曩刼徇塵。未嘗返省。時光淹沒。月蹉跎。受用殷繁。施利濃厚。動經年載。不擬棄離。

積聚滋多。保持幻質。導師有敕。戒勗比丘。進道嚴身。

三常不足。人多於此。躭味不休。日往月來。颯然白首。

後學未聞旨趣。應須博問先知。將謂出家貴求衣食。

Hán-Việt:

Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỷ Kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỷ Kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực.

Việt:

Tại sao vừa được giới phẩm lại tùy tiện cho mình là bậc Tỳ Kheo? Dùng của thí chủ, ăn của thường trú, không biết xét nghĩ cho kỹ những thứ ấy từ đâu mà có, lại nói bừa rằng hiến cúng như vậy là lẽ tất nhiên đúng pháp. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn những chuyện tạp của thế gian. Nhưng đó là cái vui nhất thời mà không biết chính cái vui đó lại là nguyên nhân của đau khổ. Bao kiếp xưa kia, chạy theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh. Thời giờ mãi trôi, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, trãi qua nhiều năm mà chẳng nghĩ tính đến việc rời bỏ. Tích chứa cho nhiều, cũng chỉ vì nuôi giữ lấy cái thân xác hư huyễn này mà thôi. Đấng Đạo Sư có khuyên răng và khuyến khích Tỳ Kheo phải giữ thân mà tiến trên đường Đạo, còn ba việc ăn, mặt, và ngủ thường ngày đừng nên cho đầy đủ quá. Con người đa số đều đam mê những mùi vị ấy không ngừng, ngày qua tháng lại, thoáng chốc đã bạc đầu. Cho nên kẻ hậu học chưa nghe được ý chỉ huyền diệu của Phật Pháp phải học hỏi sâu rộng với các bậc giác ngộ đi trước, sao lại có thể nói rằng việc xuất gia quý ở nơi cầu cơm no áo ấm?

 

Đoạn 5

Hán:

佛先制律。啓創發蒙。軌則威儀。淨如氷雪。止持作犯。

束斂初心。微細條章。革諸猥弊。毘尼法席。曾未操陪。

了義上乘。豈能甄別。可惜一生空過。後悔難追。教理未嘗措懷。玄道無因契悟。

Hán-Việt:

Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Quỹ tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.

Việt:

Phật trước chế luật để mở sáng chỗ tối tăm. Phép tắc oai nghi sạch như băng tuyết. Theo nguyên tắc ngưng là giữ, làm là phạm (chỉ trì tác phạm) để kiềm chế kẻ sơ tâm, dùng nhiều điều luật vi tế để trừ bỏ các điều xấu tệ. Nơi truyền dạy giới luật chưa hề thân cận tu tập thì đối với pháp Liễu Nghĩa Tối Thượng Thừa làm sao có thể lãnh hội được? Đáng tiếc một đời bỏ qua vô ích, về sau hối hận cũng không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng thì Đạo sâu xa không nhân đâu mà khế ngộ được!

 

Đoạn 6

Hán:

及至年高臘長。空腹高心。不肯親附良朋。惟知倨傲。未諳法律。戢斂全無。或大語高聲。出言無度。不敬上中下座。

婆羅門聚會無殊。椀鉢作聲。食畢先起。去就乖角。僧體全無。

起坐忪諸。動他心念。不存些些軌則。小小威儀。將何束斂後昆。

新學無因倣傚。

Hán-Việt:

Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô, khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta quỹ tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.

Việt:

Cho đến tuổi đời, tuổi Hạ đều cao, mà bụng rỗng tâm cao, chẳng chịu thân cận bạn lành, chỉ biết nghênh ngang kêu ngạo, chưa thông giáo pháp và giới luật, nên sự thúc liễm toàn không. Hoặc lời cao tiếng lớn, nói năng vô phép. Chẳng kính các bậc Thượng, Trung, Hạ tọa, chẳng khác gì sự tụ hội của các Bà La Môn. Khua bát ra tiếng, ăn rồi dậy trước, đến đi trái phép, tăng thể toàn không, đứng ngồi lăng xăng, làm động niệm tâm người. Chẳng còn một chút phép tắc, một tí oai nghi nào, thì lấy gì để thúc liễm hậu bối? Còn kẻ mới học cũng không nhân đâu mà noi theo được!

 

Đoạn 7

Hán:

纔相覺察。便言我是山僧。未聞佛教行持。一向情存粗糙。

如斯知見。蓋爲初心慵惰。饕餮因循。荏苒人間遂成疎野。

不覺踵老朽。觸事面牆。後學咨詢。無言接引。縱有談

典章。或被輕言。便責後生無禮。瞋心忿起言語該人。

Hán-Việt:

Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. Như tư tri kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.

Việt:

Vừa được người cảnh giác cho thì liền bảo “Ta là Sơn Tăng.” Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, một bề giữ tính vụng về lỗ mãng. Thấy biết như thế là bởi vì cái tâm lúc đầu lười biếng, theo thói tham ăn, thấm thoát chạy theo người đời, trở thành kẻ hoang dại thô tục. Chẳng hay lụm cụm già yếu, gặp việc thì xoay mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi cũng không có lời gì để dẫn dắt. Dù giảng nói cũng không có liên quan tới kinh điển. Hoặc bị khinh chê thì liền trách hậu sinh vô lễ, tâm sân nổi dậy, lớn tiếng nạt người.

 

Đoạn 8

Hán:

一朝臥疾在牀。衆苦縈纏逼迫。曉夕思忖。心裏恛惶。前路茫茫。未知何往。從茲始知悔過。臨渴掘井奚爲。自恨蚤不預修。

晚多諸過咎。臨行揮霍。怕怖慞惶。縠穿雀飛。識心隨業。

如人負債。强者先牽。心緒多端。重處偏墜。無常殺鬼念念不停。命不可延。時不可待。人天三有應未免之。如是受身非論刼數。

Hán-Việt:

Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu, lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.

Việt:

Một mai bệnh nằm trên dường, các khổ quay quanh bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi. Đường ở phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu. Đến đây mới biết hối lỗi, đợi khát mới đào giếng để làm gì? Tự hận sớm chẳng lo tu, đến tuổi xế chiều nhiều điều tội lỗi, khi sắp ra đi thì sự sống tan rã nhanh chóng, nên sợ hãi kinh hoàng. Giống như lụa lủng thì chim sẻ bay ra, thân chết rồi thì tâm thức đi theo nghiệp. Như kẻ thiếu nợ, ai mạnh theo trước, tâm tạo nhiều nghiệp, nặng đâu rơi đó. Con quỷ vô thường giết người không ngừng trong mỗi niệm, mạng sống chẳng thể kéo dày, thời gian không thể đợi chờ. Ba cõi, trời người chưa thoát khỏi được thì cứ như vậy mà thọ thân mãi số kiếp chẳng thể tính bàn.

 

Đoạn 9

Hán:

感傷歎訝。哀哉切心。豈可緘言。遞相警策。所恨同生像季。

去聖時遙。佛法生疎。人多懈怠。畧伸管見。以曉後來。

若不捐矜。誠難輪逭。

Hán-Việt:

Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân quản kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.

Việt:

Lạ lùng thương cảm, đau xót lòng thay! Đâu thể làm thinh, cho nên cảnh sách lẫn nhau. Tủi vì chúng ta đồng sanh vào thời Tượng Pháp, cách Thánh (Phật) đã xa, Phật pháp trở nên lờ mờ, nhiều người giải đãi, do vậy lược bày cái thấy nhỏ hẹp của mình để khuyên bảo những người hậu học. Nếu chẳng bỏ tính kêu căng, thì thật khó mà thay đổi được.

 

Đoạn 10

Hán:

夫出家者。發足超方。心形異俗。紹隆聖種。震懾魔軍。

用報四恩。拔濟三有。若不如此。濫廁僧倫。言行荒疎。

虚霑信施。昔年行處寸步不移。恍惚一生。將何憑恃。

况乃堂堂僧相。容貌可觀。皆是宿植善根。感斯異報。

便擬端然拱手。不貴寸陰。事業不勤。功果無因克就。

豈可一生空過。抑亦來業無裨。

Hán-Việt:

Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.

Việt:

Phàm là người xuất gia, thì phải cất bước vượt tới chỗ sâu xa (chân lý Đại Thừa), tâm hình khác tục, kế thừa và hưng thịnh dòng Thánh (Phật), nhiếp phục ma quân (vọng tâm), nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế, thì chỉ là kẻ lạm dụng xen lẫn trong hàng tăng chúng, ngôn hạnh chẳng đầy đủ, uổng nhận sự cúng dường của tín thí. Chỗ đi năm trước, một bước chẳng dời, mờ mịt một đời, lấy gì nương tựa? Huống chi, đường đường mang tướng một vị tăng, dung mạo tốt đẹp, đều là do đời trước gieo trồng căn lành nên đời nay mới cảm được quả báo đặc biệt như thế. Vậy mà chỉ nghĩ đến việc khoanh tay ngồi yên, chẳng biết quý tiếc thời gian ngắn ngủi. Đạo nghiệp không chịu nỗ lực thực hành thì Đạo quả không nhân đâu mà thành tựu. Chẳng những một đời này luống qua, mà những việc của đời sau cũng thành vô ích.

 

Đoạn 11

Hán:

辭親决志披緇。意欲等超何所。曉夕思忖。豈可遷延過時。

心期佛法棟梁。用作後來龜鏡。常以如此。未能少分相應。

Hán-Việt:

Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời. Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.

Việt:

Từ giả thân quyến quyết chí khoác áo người tu, là ý muốn vượt trên chỗ nào? Sớm tối nghĩ suy việc ấy (giác ngộ giải thoát) thì đâu thể dây dưa cho mất thời giờ. Trong lòng tự hứa sẽ làm trụ cột cho Phật Pháp, gương mẫu cho đời sau, thường nghĩ như thế đó mà còn chưa được chút phần tương ưng với việc xuất gia (huống là chưa nghĩ tới hay sao?).

 

Đoạn 12

Hán:

出言須涉於典章。談說乃傍於稽古。形儀挺特。意氣高閒。

Hán-Việt:

Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.

Việt:

Nói ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa. Hình dáng phải trang nghiêm tề chỉnh, tâm chí phải thong dong siêu thoát.

 

Đoạn 13

Hán:

遠行要假良朋。數數清於耳目。伷住止必須擇伴。時時聞於未聞。故云。生我者父母。成我者朋友。親附善者。如霧露中行。

雖不濕衣。時時有潤。狎習惡者。長惡知見。曉夕造惡。

即目交報。歿後沉淪。一失人身萬刼不復。

Hán-Việt:

Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận; hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.

Việt:

Đi xa cần nương bạn tốt, để thường lọc sạch tai mắt, trú ở cần phải chọn bạn để thường nghe những điều chưa nghe. Nên nói: “Sanh ta ra là do cha mẹ, làm nên ta là do bằng hữu.” Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy không ướt áo nhưng lúc nào cũng được thấm nhuần. Quen gần kẻ ác thì thêm lớn những tri kiến ác, sớm tối làm ác thì phải chịu quả báo trước mắt, sau khi chết đi thì phải chịu trầm luân, một khi mất thân người thì vạn kiếp khó mà khôi phục lại được.

Đoạn 14

Hán:

忠言逆耳。豈不銘心者哉。便能澡心育德。晦跡韜名。蘊素精神。喧囂止

Hán-Việt:

Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.

Việt:

Lời ngay trái tai, sao chẳng ghi lòng tạc dạ? Như thế thì mới có thể rửa tâm nuôi đức, ẩn tích mai danh, giữ cho tinh thần sạch trong, dứt hết sự ồn náo (nơi tâm).

 

Đoạn 15

Hán:

若欲叅禪學道。頓超方便之門。心契玄津。研機精要。决擇深奥。啟悟真源。博問先知。親近善友。此宗難得其妙。切須仔細用心。

可中頓悟正因。便是出塵階漸。此則破三界二十五有。

内外諸法盡知不實。從心變起悉是假名。不用將心湊泊。

但情不附物。物豈礙人。任他法性周流。莫斷莫續。

聞聲見色蓋是尋常。這邊那邊應用不闕。

Hán-Việt:

Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu, thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh; bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục, văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết.

Việt:

Nếu muốn tham Thiền học Đạo, chóng vượt qua các cửa phương tiện, thì tâm phải đến tới bờ mé sâu thẩm của ý thức (thoại đầu), tham cứu cho rốt ráo chỗ tinh yếu của Đạo, quyết chọn chỗ sâu xa, để mở sáng nguồn chân, tham vấn rộng khắp với những vị giác ngộ đi trước, thân cận với người lành. Tông nầy khó đạt được chỗ kỳ diệu của nó nên cần phải khẩn thiết dụng tâm cho tinh tế (miên mật), mới có thể ngay trong đó mà đốn ngộ chánh nhân, đó chính là thềm bực ra khỏi trần lao. Theo đó tức là phá sạch hết hai mươi lăm cảnh giới của ba cõi. Tất cả các pháp trong ngoài trọn biết là không thật, từ tâm biến hiện tức là giả danh. Chẳng cần đem tâm nương gá nơi đâu, chỉ cần không bám theo vật, thì vật cũng chẳng chướng ngại được người. Mặc tình cho Pháp Tánh trùm khắp, đừng đoạn dứt cũng đừng tiếp nối, nghe tiếng thấy sắc đại để đều là việc tầm thường, dù bên này hay bên kia chỗ ứng dụng chẳng thiếu.

 

Đoạn 16

Hán:

如斯行止。實不枉披法服。亦乃酬報四恩。拔濟三有。

生生若能不退。佛階决定可期。往來三界之賓。出沒爲他作則。

Hán-Việt:

Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.

Việt:

Nếu chỗ nầy mà làm được thì thật không uổng khoác áo pháp, cũng là báo đền bốn ân, cứu vớt ba cõi. Đời đời nếu có thể không thoái lui, thì quả Phật quyết định có thể kỳ vọng. Đến đi làm khách của ba cõi, ra vào đều làm khuôn phép cho người.

 

Đoạn 17

Hán:

此之一學最妙最玄。但辦肯心。必不相賺。

Hán-Việt:

Thử chi nhất học tối huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám.

Việt:

Một pháp Thiền học nầy rất huyền rất diệu. Chỉ cần có đầy đủ quyết tâm ắt không dối nhau.

 

Đoạn 18

Hán:

若有中流之士。未能頓超。且於教法留心。温尋貝葉。精搜義理。傳唱敷揚。接引後來。報佛恩德。時光亦不虚棄。必須以此扶持。住止威儀。便是僧中法器。豈不見倚松之葛。上聳千尋。

附託勝因。方能廣益。懇修齋戒。莫謾虧踰。世世生生殊妙因果。

Hán-Việt:

Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm, phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả.

Viết:

Nếu có người căn cơ ở bậc Trung, không thể ngay nơi pháp đốn ngộ nầy mà vượt thoát, thì nên ở nơi giáo pháp mà lưu tâm, tìm học kinh giáo, nghiên cứu nghĩa lý cho rõ ràng, truyền bá rộng khắp, tiếp đón diều dắt người đời sau, để báo đền ân đức của Phật. Thời giờ cũng đừng bỏ qua, cần phải lấy những việc đó làm chỗ nương tựa và giữ gìn. Đi đứng oai nghi, mới chính là bậc pháp khí trong hàng tăng chúng. Há chẳng thấy dây sắn nương cây tùng mà vươn lên cao ngàn thước, nương nhờ cái nhân thù thắng mới có thể đạt được nhiều lợi ích. Phải chân thành tu hành giữ gìn trai giới, đừng có khinh thường mà bỏ qua. Có như vậy thì đời đời kiếp kiếp sẽ được cái nhân quả vô cùng tốt đẹp.

 

Đoạn 19

Hán:

不可等閒過日。兀兀度時。可惜光陰不求升進。徒消十方信施。

亦乃孤負四恩。積累轉深。心塵易壅。觸途成滯。人所輕欺。

Hán-Việt:

Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.

Việt:

Không thể ngồi không qua ngày, lơ mơ qua giờ, đáng tiếc cho ngày tháng qua mau, sao chẳng cầu thăng tiến trên đường Đạo? Uổng hao của mười phương tín thí, cũng là cô phụ bốn ân. Tích chứa cho nhiều thì tâm dễ bị bụi trần che lấp, nên làm việc gì cũng chẳng xong, bèn bị người khinh chê.

Đoạn 20

Hán:

古云。彼旣丈夫。我亦爾。不應自輕而退屈。若不如此。

徒在緇門。荏苒一生殊無所益。

Hán-Việt:

Cổ vân, bỉ ký trượng phu, ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.

Việt:

Người xưa nói: “Kia đã là bậc trượng phu thì ta cũng thế” chẳng nên tự khinh chê mà lùi bước khuất phục. Nếu chẳng như thế, luống ở cửa chùa, thấm thoát một đời, quyết không lợi ích.

 

Đoạn 21

Hán:

伏望興决烈之志。開特達之懷。舉措看他上流。莫擅隨於庸鄙。

今生便須决斷。想料不由別人。息意忘。不與諸塵作對。

心空境寂。只爲久滯不通。

Hán-Việt:

Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối. Tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.

Việt:

Kính mong các vị khởi lên cái chí quyết liệt, mở ra cái tâm thông suốt khác người, tất cả việc làm phải nhìn theo bậc Thượng kia, chớ chuyên theo với kẻ tầm thường. Ngay nơi đời nầy cần phải đoạn dứt sanh tử, tự mình lo liệu chẳng do người khác. Dứt ý quên duyên, chẳng cùng các trần làm bạn. Tâm cảnh vốn không tịch, chỉ vì ngăn trệ đã lâu nên không thông suốt được.

 

Đoạn 22

Hán:

熟覽斯文。時時警策。强作主宰。莫徇人情。業果所牽。

誠難逃避。聲和響順。形直影端。人果歴然。豈無憂懼。故經云。假使百千刼所作業不亡。因會遇時。果報還自受。

故知三界刑罰。縈絆殺人。努力勤修。莫空過日。

Hán-Việt:

Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị, thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ. Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Cố tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật.

Việt:

Hãy đọc cho kỹ bài văn nầy để thường thường nhắc nhở và sách tấn lấy mình. Hãy tận sức mà làm chủ lấy mình, đừng thuận theo tình người. Nghiệp quả ràng buộc lôi kéo thật khó trốn tránh, cũng như tiếng hòa thì âm vang, hình thẳng thì bóng ngay. Nhân Quả rõ ràng như thế, há không lo sợ!? Cho nên kinh nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đã làm không mất, khi nhân duyên hội hợp, quả báo lại tự chịu”. Nên biết sự hình phạt của ba cõi là trói buộc và giết người, vậy phải nổ lực gắng tu, chớ bỏ không qua ngày!

 

Đoạn 23

Hán:

深知過患。方乃相勸行持。願百刼千生。處處同爲法侶。

Hán-Việt:

Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:

Việt:

Biết rõ được sự tai hại của tội lỗi, cho nên khuyên nhau hành trì. Nguyện trăm kiếp ngàn đời, dù ở nơi đâu cũng cùng làm bạn pháp.

 

Đoạn 24

 

Hán:

乃爲銘曰:

 

1.

幻身夢宅。

空中物色。

前際無窮。

後際寧尅。

 

2.

出此沒彼。

升沉疲極。

未免三輪。

何時休息。

 

3.

貪戀世間。

緣成質。

從生至老。

一無所得。

 

4.

根本無明。

因茲被惑。

光陰可惜。

刹那不測。

 

5.

今生空過。

來世窒塞。

從迷至迷。

皆因六賊。

 

6.

六道往還。

三界匍匐。

早訪明師。

親近高德。

 

7.

决擇身心。

去其荆棘

世自浮虚。

緣豈逼。

 

8.

研窮法理。

以悟爲則。

心境俱捐。

莫記莫憶。

 

9.

六根怡然。

行住寂默。

一心不生。

萬法俱息


Hán-Việt:

Nãi vi minh viết:

 

1.

Huyễn thân mộng trạch

Không trung vật sắc

Tiền tế vô cùng

Hậu tế ninh khắc?

 

2.

Xuất thử một bỉ

Thăng trầm bì cực

Vĩ miễn tam luân

Hà thời hưu tức?

 

3.

Tham luyến thế gian

Ấm duyên thành chất

Tùng sanh chí lão

Nhất vô sở đắc.

 

4.

Căn bản vô minh

Nhân tư bị hoặc

Quang âm khả tích

Sát na bất trắc.

 

5.

Kinh sanh không quá

Lai thế trất tắc

Tùng mê chí mê

Giai nhân lục tặc.

 

6.

Lục đạo vãng hoàn

Tam giới bồ bặc

Tảo phóng minh sư

Thân cận cao đức.

 

7.

Quyết trạch thân tâm

Khử kỳ kinh cức

Thế tự phù hư

Chúng duyên khởi bức?

 

8.

Nghiên cùng pháp lý

Dĩ ngộ vi tắc

Tâm cảnh câu quyên

Mạc ký mạc ức.

 

9.

Lục căn dĩ nhiên

Hành trú tịch mặc

Nhứt tâm bất sanh

Vạn pháp câu tức.

 

 

Việt:

Nên làm bài minh rằng:

 

1.

Thân huyễn nhà mộng

Vật sắc trong không

Đời trước không cùng

Đời sau đâu ngằn?

 

2.

Thoát đây chìm kia

Lên xuống nhọc nhằn

Chưa khỏi ba cõi

Bao giờ thôi nghỉ?

 

3.

Tham luyến thế gian

Ấm, duyên thành chất

Từ sanh đến già

Không được gì cả!

 

4.

Căn bản vô minh

Nhân đây bị mê

Thời giờ đáng tiếc

Sát-na khó lường.

 

 

 

 

 

5.

Đời nầy luống qua

Đời sau bế tắc

Từ mê đến mê

Đều do sáu giặc.

 

6.

Qua lại sáu đường

Lăn lóc ba cõi

Sớm hỏi minh sư

Thân cận cao đức.

 

7.

Quyết lọc thân tâm

Bỏ điều gai góc

Đời tự phù hư

Duyên nào ép bức?

 

8.

Xét cùng pháp lý

Lấy ngộ làm gương

Tâm cảnh đều quên

Không nhớ không nghĩ.

 

9.

Sáu căn an nhiên

Đứng đi lặng yên

Một tâm không sanh

Muôn pháp đều NHƯ.

 

 

Tài Liệu Tham Khảo

  1. Qui Sơn Cảnh Sách (Tỉnh Việt Đông, núi Đảnh Hồ, thầy Sa-môn Thích Hoằng Tán Tại Tham chú giải. Kẻ môn nhân, thầy Tỳ-kheo hiệu Khai Huýnh làm lời ký). Hòa Thượng Khánh Anh Việt dịch.
  1. Quy Sơn Cảnh Sách Văn – Trích trong quyển “Giới Sa Di và Giới Sa Di Ni” của Hòa Thượng Trí Quang Việt dịch.
  1. Quy Sơn Cảnh Sách – Hòa Thượng Thanh Từ Việt dịch và giải.
  1. Quy Sơn Cảnh Sách – Cư sĩ Nguyên Minh Tiến Việt dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn